Notifications
Clear all

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975

74 Bài viết
1 Thành viên
88 Reactions
1,318 Lượt xem
Cô Cô
(@coco)
Công dân
Liễu ám hoa minh Cô Cô
Được ưa thích
Cư dân
Tài sản: 4998.65
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1134
Topic starter  

Tháng 7/1954, cuộc kháng chiến chống Pháp của Nhân dân ta thắng lợi, thực dân Pháp buộc phải ký Hiệp định Geneve. Mỹ ngoan cố không chấp nhận các điều khoản của Hiệp định Geneve, không ký Tuyên bố cuối cùng của Hiệp định, đồng thời xúc tiến kế hoạch xâm chiếm miền Nam nước ta bằng Chiến lược “Chiến tranh đơn phương”, thông qua việc dùng chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, Mỹ tập trung thực hiện biện pháp “tố cộng, diệt cộng” đàn áp, khủng bố phong trào yêu nước, trả thù những người kháng chiến cũ, tiêu diệt cơ sở cách mạng ở miền Nam, ban hành Luật 10/59 “đặt cộng sản ra ngoài vòng pháp luật”, biến cả miền Nam thành nơi tràn ngập nhà tù, trại giam, trại tập trung. Cách mạng miền Nam bị dìm trong biển máu.

Đứng trước tình thế mới, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo quân và dân cả nước thực hiện đồng thời hai chiến lược cách mạng: Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, xây dựng miền Bắc thành căn cứ vững mạnh của cách mạng cả nước và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam nhằm giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ.

Đầu năm 1959, Nghị quyết 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra đời, mở ra một phương thức đấu tranh mới. Cách mạng miền Nam từ chỗ chỉ tiến hành đấu tranh chính trị, giữ gìn bảo toàn lực lượng là chính tiến lên kết hợp đấu tranh chính trị song song với đấu tranh vũ trang.

Từ cuối năm 1960, đế quốc Mỹ thay đổi chiến lược, chuyển sang “Chiến tranh đặc biệt” đối phó với cách mạng miền Nam, cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam chuyển sang giai đoạn mới, từ khởi nghĩa từng phần lên chiến tranh cách mạng, kết hợp song song cả đấu tranh vũ trang và chính trị, đánh địch bằng cả quân sự và chính trị, bằng cả ba mũi giáp công, trên cả ba vùng chiến lược, làm phá sản chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ và tay sai.

Trước nguy cơ phá sản của “Chiến tranh đặc biệt”, đế quốc Mỹ chuyển sang chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, quân và dân ta tiếp tục đánh trả những cuộc tấn công của Mỹ và giành nhiều thắng lợi. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân Xuân 1968 đã giáng một đòn quyết định vào chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải xuống thang chiến tranh và ngồi vào bàn đàm phán với ta tại Hội nghị Paris.

Nắm đúng thời cơ, quân và dân ta đã liên tiếp giành thắng lợi lớn trên chiến trường, nhất là cuộc tiến công chiến lược năm 1972 và đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai ra miền Bắc, nổi bật là đánh thắng cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B52 của Mỹ (Điện Biên Phủ trên không), làm thay đổi cục diện chiến trường, cục diện chiến tranh. Trong đàm phán, chúng ta cũng khôn khéo tiến công địch, phối hợp chặt chẽ giữa “đánh và đàm”, buộc Mỹ phải ký Hiệp định Paris (1973), rút hết quân Mỹ và quân các nước chư hầu Mỹ ra khỏi miền Nam nước ta.

Sau khi ký Hiệp định Paris, mặc dù buộc phải rút hết quân nhưng đế quốc Mỹ vẫn tiếp tục âm mưu dùng Ngụy quân, Ngụy quyền làm công cụ để thực hiện chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam Việt Nam, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới. Tháng 7/1973, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 21 đã khẳng định con đường cách mạng miền Nam vẫn là con đường bạo lực và đề ra các nhiệm vụ lớn cho hai miền Nam - Bắc.

Tháng 7/1974, Đảng ta chỉ đạo Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam xây dựng kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam trong hai năm 1975 - 1976, nếu thời cơ đến sẽ giải phóng miền Nam trong năm 1975. Cuối năm 1974 - đầu năm 1975, Đảng ta nhận định thời cơ giải phóng miền Nam đã đến.

Sáng tai họ, điếc tai cày


   
U Cay reacted
Trích dẫn
Cô Cô
(@coco)
Công dân
Liễu ám hoa minh Cô Cô
Được ưa thích
Cư dân
Tài sản: 4998.65
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1134
Topic starter  

CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY MÙA XUÂN 1975

Quyết định lịch sử

Ngay từ giữa năm 1974, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đã nhận thấy tình hình cách mạng miền Nam cần phải có một bước chuyển biến nhảy vọt. Lúc này, nhận thức đúng để có một quyết sách thích hợp và kịp thời là một yêu cầu cấp bách, đòi hỏi những người lãnh đạo cao nhất của cách mạng phải hết sức sáng suốt và nhạy bén.
Ngày 21-7-1974, tại thị xã Đồ Sơn (Hải Phòng), Bí thư Thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lê Duẩn họp với một số thành viên trong Thường trực Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tham mưu để chuẩn bị cho Hội nghị Bộ Chính trị về nhiệm vụ chống Mỹ, cứu nước trong hai năm 1975-1976.
Tiếp sau cuộc họp quan trọng trên, sau một thời gian ngắn khẩn trương chuẩn bị về mọi mặt, từ ngày 30-9 đến 8-10-1974, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp bàn về chủ trương giải phóng hoàn toàn miền Nam.
Tại cuộc họp, Bộ Chính trị đã phân tích, xem xét, cân nhắc nhiều vấn đề cụ thể liên quan đến tương quan lực lượng giữa cách mạng và phản cách mạng không chỉ ở miền Nam, mà cả trên phạm vi cả nước và quốc tế. Nhận định về âm mưu của Mỹ và các thế lực phản động quốc tế khác đối với cách mạng Việt Nam, Bộ Chính trị khẳng định: Lúc đầu Mỹ đưa quân vào xâm lược miền Nam, bao vây phe ta ở Đông Nam Á, hòng tiến lên độc chiếm khu vực này. Nhưng nay bị thất bại, "Mỹ phải xoay sang bắt tay, thỏa hiệp để chia quyền lợi và vùng ảnh hưởng... Tuy tranh giành nhau, song tất cả đều lo ngại cách mạng Việt Nam mạnh lên và giành được toàn thắng, đều coi một nước Việt Nam thống nhất, độc lập gắn bó, đoàn kết với Lào và Campuchia độc lập, thống nhất sẽ là một trở lực lớn đối với mưu đồ... của họ. Vì thế, họ tìm mọi cách chặn bước tiến của Việt Nam, kéo dài tình trạng chia cắt đất nước ta, hòng làm cho suy yếu. Âm mưu của họ rất nguy hiểm, nhưng lúc này chưa ai sẵn sàng, chưa ai đủ sức làm nổi".
Một trong những vấn đề được Hội nghị Bộ Chính trị thảo luận sôi nổi là đánh giá khả năng Mỹ can thiệp vào miền Nam Việt Nam. Hội nghị nhất trí nhận định rằng: Mỹ gặp nhiều khó khăn ở trong và ngoài nước, khả năng viện trợ cho Thiệu ngày càng giảm, "Mỹ không có khả năng quay lại. Song ta cũng khẳng định, dù Mỹ có can thiệp trở lại trong chừng mực nào thì chúng cũng không xoay chuyển được tình thế, và ta vẫn thắng".

Sáng tai họ, điếc tai cày


   
U Cay reacted
Trả lờiTrích dẫn
Cô Cô
(@coco)
Công dân
Liễu ám hoa minh Cô Cô
Được ưa thích
Cư dân
Tài sản: 4998.65
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1134
Topic starter  

Từ sự nhận định âm mưu của Mỹ và các thế lực phản động quốc tế khác đối với Việt Nam và từ sự phân tích so sánh lực lượng trên chiến trường miền Nam, Hội nghị Bộ Chính trị khẳng định: Lúc này, thời cơ chiến lược đã đến. "Đây là thời cơ thuận lợi nhất để nhân dân ta hoàn toàn giải phóng miền Nam, giành thắng lợi trọn vẹn cho cách mạng dân tộc dân chủ, đồng thời giúp Lào và Campuchia hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc. Ngoài thời cơ này không có thời cơ nào khác".
Sau khi thống nhất nhận định tình hình và thời cơ chiến lược, Hội nghị Bộ Chính trị nhất trí phê duyệt kế hoạch chiến lược cơ bản do Bộ Tổng tham mưu dự thảo. Kế hoạch chiến lược gồm hai bước:
* Bước 1 (1975): Tranh thủ bất ngờ, tiến công lớn và rộng khắp nhằm:
1. Đánh bại về cơ bản kế hoạch "bình định" của địch, tiêu diệt và làm tan rã một bộ phận quan trọng quân đội Sài Gòn, giải phóng và làm chủ phần lớn nông thôn Đồng bằng sông Cửu Long, vùng ven Sài Gòn, đồng bằng Khu V và Trị Thiên.
2. Mờ rộng hành lang chiến lược từ Nam Tây Nguyên xuống miền Đông Nam Bộ và ba tỉnh phía Nam Khu V, từ Tây Ninh xuống Sài Gòn, từ Tây Ninh xuống Long An, xuống Tây Nam Sài Gòn, từ Kiến Phong, Kiến Tường đến Mỹ Tho. Mở các căn cứ bàn đạp, áp sát các đô thị và căn cứ trọng yếu của địch.
3. Phá hủy một bộ phận quan trọng phương tiện chiến tranh, tiềm lực kinh tế, cắt giao thông địch.
4. Thúc đẩy phong trào đô thị phát triển.
5. Xây dựng lực lượng, củng cố vùng giải phóng, chuẩn bị chiến trường, tạo điều kiện cho bước 2.
* Bước 2 (1976): Thực hiện tổng công kích, tổng khởi nghĩa, giải phóng hoàn toàn miền Nam.
Kế hoạch chiến lược hai năm 1975, 1976 đều có ví trị quan trọng, nhưng năm 1975 là năm bản lề, tạo điều kiện mọi mặt để trong năm 1976 giành thắng lợi cuối cùng. Hội nghị nhấn mạnh yêu cầu phải có kế hoạch tạo thời cơ và đón thời cơ, nhất là khi Nguyễn Văn Thiệu đổ. Trong bất kỳ tình huống nào cũng không được để lỡ thời cơ khi thời cơ chiến lược xuất hiện. "Nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975”.
Tây Nguyên được chọn làm chiến trường chủ yếu trong cuộc tiến công lớn và rộng khắp năm 1975.

Sáng tai họ, điếc tai cày


   
U Cay reacted
Trả lờiTrích dẫn
Cô Cô
(@coco)
Công dân
Liễu ám hoa minh Cô Cô
Được ưa thích
Cư dân
Tài sản: 4998.65
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1134
Topic starter  

Kết luận Hội nghị, Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn khẳng định: "Quyết tâm của ta là động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy cuối cùng, đưa chiến tranh cách mạng phát triển đến mức cao nhất, tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ quân ngụy, đánh chiếm Sài Gòn, sào huyệt trung tâm của địch cũng như tất cả các thành thị khác, đánh đổ ngụy quyền ờ trung ương và các cấp, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân, giải phóng hoàn toàn miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới thống nhất nước nhà".
Sau Hội nghị, Bộ Chính trị và Thường trực Quân ủy Trung ương vừa chỉ đạo việc thực hiện kế hoạch, vừa theo dõi và phân tích những diễn biến của tình hình nhằm kịp thời bổ sung, điều chỉnh kế hoạch chiến lược cho sát đúng với thực tiễn chiến trường.
Bộ Chính trị nhận thấy cần có thêm thời gian đánh giá tình hình kỹ hơn, thảo luận sâu hơn, xây dựng kế hoạch đầy đủ hơn để đi tới hạ quyết tâm chiến lược có cơ sở khoa học, bảo đảm chắc thắng.

Sáng tai họ, điếc tai cày


   
U Cay reacted
Trả lờiTrích dẫn
Cô Cô
(@coco)
Công dân
Liễu ám hoa minh Cô Cô
Được ưa thích
Cư dân
Tài sản: 4998.65
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1134
Topic starter  

Từ ngày 18-12-1974 đến ngày 8-1-1975, Hội nghị Bộ Chính trị (mở rộng) nhằm thảo luận và quyết định lần cuối cùng kế hoạch giải phóng hoàn toàn miền Nam.
Hội nghị xem xét và phân tích kỹ những diễn biến nhanh chóng trên chiến trường từ sau Hội nghị Bộ Chính trị tháng 10-1974. Lúc này, thực tiễn chiến trường phát triển có phần nhanh hơn dự kiến của kế hoạch tác chiến chiến lược mà Bộ Tổng tham mưu trình bày tại Hội nghị Bộ Chính trị lần trước.
Trong đợt tiến công mùa khô 1974-1975, quân ta giành nhiều thắng lợi ở miền Đông Nam Bộ và Khu IX. Tin chiến thắng dồn dập bay về, khẳng định thế chủ động của ta, thế bị động và đi xuống của địch.
Trong thời gian đang họp, Bộ Chính trị nhận được nhiều tin chiến thắng dồn dập, báo hiệu những khả năng mới. Ngày 26-12-1974, quân ta tiến công làm chủ hoàn toàn chi khu quân sự Đồng Xoài.
Ngày 6-1-1975, sau 26 ngày đêm chiến đấu liên tục, chiến dịch Đường 14 - Phước Long kết thúc thắng lợi, toàn bộ thị xã Phước Long được giải phóng.
Chiến thắng Phước Long mang ý nghĩa một đòn trinh sát chiến lược rất quan trọng. Lần đầu tiên ở miền Nam, một tỉnh được hoàn toàn giải phóng, tỉnh đó lại ờ gần Sài Gòn. Thực tế này cho thấy rõ hơn sự trưởng thành nhanh chóng và mạnh mẽ của ta, đánh dấu bước suy sụp mới của địch. Với thất bại này của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, đài BBC nhận xét: "Bây giờ hình như Tống thống Ford chẳng biết làm gì thêm ngoại trừ ngồi đợi và hy vọng là những điều tai hại khác sẽ không xảy ra".
Từ sự phân tích sâu sắc thực tiễn chiến trường, cũng như tình hình chung trong nước và quốc tế tác động trực tiếp đối với cuộc chiến tranh Việt Nam, Hội nghị Bộ Chính trị (đợt hai) nhất trí ra Nghị quyết lịch sử:
"Nắm vững thời cơ lịch sử, mở nhiều chiến dịch tổng hợp liên tiếp, đánh những trận quyết định, kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, tiến tới thống nhất Tổ quốc".
Về kế hoạch chiến lược, Hội nghị Bộ Chính trị (đợt hai) phê chuẩn dự thảo kế hoạch lần thứ 8 của Bộ Tổng tham mưu về cơ bản đã thông qua tại Hội nghị Bộ Chính trị tháng 10-1974, đồng thời nêu rõ hơn phương châm, phương pháp là: Kết hợp chặt chẽ giữa tiến công và nổi dậy; Tiến công địch để giành quyền làm chủ, làm chủ để tiêu diệt địch cao hơn, tiến lên trong công kích, tổng khởi nghĩa, tiêu diệt và làm tan rã quân đội Sài Gòn, đánh đổ chính quyền Sài Gòn từ trung ương đến địa phương, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân, giải phóng hoàn toàn miền Nam.
Nghị quyết Hội nghị Bộ Chính trị tháng 10-1974 và Hội nghị Bộ Chính trị (đợt hai) tháng 1-1975 có ý nghĩa lịch sử trọng đại. Bộ Chính trị đã phân tích một cách hết sức chính xác sự phát triển mới của tình hình, hạ quyết tâm và đề ra phương hướng hành động vô cùng đúng đắn cho quân và dân cả nước trước thời cơ lớn của lịch sử, thời cơ giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

 

Sáng tai họ, điếc tai cày


   
U Cay reacted
Trả lờiTrích dẫn
Cô Cô
(@coco)
Công dân
Liễu ám hoa minh Cô Cô
Được ưa thích
Cư dân
Tài sản: 4998.65
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1134
Topic starter  

Bản đồ hành chính VNCH năm 1967

image

Sáng tai họ, điếc tai cày


   
U Cay reacted
Trả lờiTrích dẫn
Cô Cô
(@coco)
Công dân
Liễu ám hoa minh Cô Cô
Được ưa thích
Cư dân
Tài sản: 4998.65
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1134
Topic starter  

Chiến dịch Tây Nguyên - mở đầu cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975
Ngày sau khi kết thúc Hội nghị Bộ Chính trị (đợt hai, mở rộng), ngày 9-1-1975, Thường trực Quân ủy Trung ương họp để quán triệt và triển khai Nghị quyết Hội nghị Bộ Chính trị. Hội nghị tập trung bàn về chiến dịch Tây Nguyên.
Tây Nguyên là một dải đất rộng, khoảng 53.000km2, với dân số khoảng trên một triệu người (đầu năm 1975), trong đó khoảng hai phần ba là đồng bào các dân tộc thiểu số. Phía Bắc Tây Nguyên tiếp giáp với tỉnh Quảng Nam, phía Nam tiếp giáp với miền Đông Nam Bộ, phía Đông là các tỉnh ven hiển Trung bộ và phía Tây giáp hai nước Lào và Campuchia với đường biên giới chung dài 700km. Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, phạm vi chiến tranh Tây Nguyên (B3) gồm các tỉnh Gia Lai, Kon Tum, Phú Bổn, Đắc Lắc và một phần tỉnh Quảng Đức. Tây Nguyên là một địa bàn rất quan trọng về chính trị, kinh tế, quân sự. Thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đều cho rằng muốn chiến thắng ở Nam Việt Nam phải kiểm soát được vùng cao nguyên trung phần (Tây Nguyên). Do đó, trong quá trình tiến hành chiến tranh xâm lược, đối phương đã xây dựng ở Tây Nguyên một hệ thống đường giao thông hiện đại, nhiều sân bay, kho tàng, trại biệt kích nằm dọc biên giới, biến Tây Nguyên thành một khu căn cứ quân sự lớn, một địa bàn xuất phát các cuộc hành quân đàn áp phong trào cách mạng của nhân dân ba nước Đông Dương; đồng thời xây dựng ở Tây Nguyên những phòng tuyến ngăn chặn đường vận tải chiến lược của ta từ Bắc vào Nam, ngăn chặn sự giao lưu giữa miền núi và đồng bằng (Trung bộ).
Từ những năm kháng chiến chống Pháp đến kháng chiến chống Mỹ, Tây Nguyên luôn luôn là một chiến trường có tầm quan trọng chiến lược đối với cả ta và địch, một địa bàn cơ động, thuận tiện cho tác chiến của quân chủ lực trên chiến trường Việt Nam và Đông Dương.

Sáng tai họ, điếc tai cày


   
U Cay reacted
Trả lờiTrích dẫn
Cô Cô
(@coco)
Công dân
Liễu ám hoa minh Cô Cô
Được ưa thích
Cư dân
Tài sản: 4998.65
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1134
Topic starter  

Từ lâu, đồng bào các dân tộc Tây Nguyên đã sát cánh cùng nhân dân cả nước đấu tranh chống các kẻ thù xâm lược, đặc biệt là trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Nhân dân Tây Nguyên đã góp phần tích cực vào công cuộc xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang cách mạng; xây dựng và bảo vệ tuyến hậu cần chiến lược Bắc - Nam; xây dựng Tây Nguyên thành một căn cứ liên hoàn vững chắc, phối hợp với các chiến trường khác trên toàn miền Nam và chiến trường ba nước Đông Dương.
Từ lâu, đồng bào các dân tộc Tây Nguyên đã sát cánh cùng nhân dân cả nước đấu tranh chống các kẻ thù xâm lược, đặc biệt là trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Nhân dân Tây Nguyên đã góp phần tích cực vào công cuộc xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang cách mạng; xây dựng và bảo vệ tuyến hậu cần chiến lược Bắc - Nam; xây dựng Tây Nguyên thành một căn cứ liên hoàn vững chắc, phối hợp với các chiến trường khác trên toàn miền Nam và chiến trường ba nước Đông Dương.
Từ mùa xuân 1975, vùng giải phóng Tây Nguyên được mở rộng, tương đối hoàn chỉnh, đặc biệt là từ Bắc Kon Tum xuống đến Nam Đăk Lăk. Đồng bào các dân tộc Tây Nguyên hăng hái tham gia vào công tác cách mạng, đi dân công, làm đường, vận tải hàng hóa...
Trải qua nhiều năm xây dựng và chiến đấu, lực lượng vũ trang trên chiến trường Tây Nguyên đã trưởng thành về mọi mặt. Bộ đội chủ lực được rèn luyện, có kinh nghiệm tác chiến tập trung, nhất là trình độ đánh vận động. Mạng đường chiến lược, chiến dịch, hệ thống bảo đảm hậu cần được xây dựng ngày càng phát triển, có thể đáp ứng yêu cầu tiếp tế và cơ động lực lượng phục vụ bộ đội chủ lực tác chiến trong những chiến dịch quy mô lớn. Tính đến cuối tháng 2-1975, ở Tây Nguyên đã dự trữ được 54.000 tấn vật chất, trong đó có 7.286 tấn đạn, 28.600 tấn gạo, thực phẩm đủ đảm bảo cho các lực lượng vũ trang hoạt động trong cả năm 1975.
Về phía quân đội Sài Gòn, lúc này lực lượng đóng tại Tây Nguyên gồm có 1 sư đoàn chủ lực, 7 liên đoàn quân biệt động và 4 thiết đoàn xe tăng, thiết giáp. Do đánh giá và phán đoán sai ý đồ chiến lược của ta, những người cầm đầu chính quyền và quân đội Sài Gòn cho rằng, trong năm 1975 ta chưa đủ sức đánh thị xã và thành phố, và nếu có đánh, thì cũng đánh ở phía Bắc. Vì vậy, chúng tập trung lực lượng giữ Plâycu, Kon Tum, còn Buôn Mê Thuột vẫn sơ hở. Lực lượng ở đây không mạnh, phần lớn là quân hậu cứ của sư đoàn và trung đoàn, càng đi vào phía trong, lực lượng càng mỏng.

Sáng tai họ, điếc tai cày


   
U Cay reacted
Trả lờiTrích dẫn
Cô Cô
(@coco)
Công dân
Liễu ám hoa minh Cô Cô
Được ưa thích
Cư dân
Tài sản: 4998.65
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1134
Topic starter  

Sau khi cân nhắc kỹ, trên cơ sở Nghị quyết Hội nghị Bộ Chính trị, Hội nghị Thường trực Quân ủy Trung ương quyết định chọn Tây Nguyên làm hướng tiến công chủ yếu, trong đó Buôn Mê Thuột là mục tiêu tấn công đầu tiên.
Việc chọn Buôn Mê Thuột làm mục tiêu tấn công đầu tiên sẽ tạo ra một đòn bất ngờ đối với địch, có nhiều khả năng phá vỡ hệ thống phòng ngự của chúng ở vùng II chiến thuật, làm rung chuyển Tây Nguyên và toàn bộ thế trận của địch trên chiến trường, tạo ra thời cơ mới cho việc thực hiện kế hoạch chiến lược hai năm 1975-1976.
Hội nghị Thường trực Quân ủy Trung ương đã xác định rõ nhiệm vụ cụ thể của chiến dịch Tây Nguyên là:
- Tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, loại khỏi vòng chiến đấu từ 4 đến 5 vạn quân, diệt từ 3 đến 4 trung đoàn, liên đoàn bộ binh, thiết giáp, đánh thiệt hại nặng từ 1 đến 2 sư đoàn chủ lực địch, diệt nhiều tiểu đoàn bảo an, nhiều trung đội dân vệ, làm tụt nhanh quân số của chúng. Mở rộng hành lang chiến lược từ Đường 14 qua Gia Nghĩa xuống Đường 20 nối với miền Đông Nam Bộ và từ Tây Nguyên xuống ba tỉnh Khu V.
- Giải phóng nhân dân và phần lớn vùng đất ở Nam Plâycu, Cheo Reo và xung quanh Buôn Mê Thuột, đánh bại kế hoạch "bình định", nống lấn và giải tỏa của địch, giữ vững, phát huy quyền làm chủ chiến trường, thực hiện chia cắt chiến lược. Tích cực phối hợp với mặt trận chống bình định ở đồng bằng. Diệt từ 3 đến 4 tiểu khu, chi khu quân sự, từ một đến hai tỉnh lỵ.
- Đánh phá giao thông và hậu cứ, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh, làm cho tiềm lực kinh tế của địch giảm sút trầm trọng. Khi có thời cơ, thực hiện chia cắt các Đường 14, 19, 21, trọng điểm là Đường 19.
- Phát triển đấu tranh chính trị trong các thị xã. Ra sức xây dựng cơ sở tự vệ mật và các tổ chức biệt động, diệt ác ôn đầu sỏ, tạo thế làm chủ ở cơ sở.
- Xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân, xây dựng vùng giải phóng, xây dựng các đường chiến lược, chiến dịch, hoàn thành mọi công tác chuẩn bị cho nhiệm vụ tiếp theo.

Sáng tai họ, điếc tai cày


   
U Cay reacted
Trả lờiTrích dẫn
Cô Cô
(@coco)
Công dân
Liễu ám hoa minh Cô Cô
Được ưa thích
Cư dân
Tài sản: 4998.65
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1134
Topic starter  

Theo quyết định của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, Đại tướng Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng được cử vào Tây Nguyên cùng một số cán bộ cao cấp khác tổ chức thành một bộ phận đại diện Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh ở chiến trường miền Nam, hình thành cơ quan chỉ huy quân sự tối cao ở tiền phương. Ngay sau khi vào đến Tây Nguyên ngày 13-2-1975, Đại tướng Văn Tiến Dũng thay mặt Quân ủy Trung ương công bố quyết định thành lập Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên do Hoàng Minh Thảo làm Tư lệnh, Đặng Vũ Hiệp làm Chính ủy.
Theo sự điều động của Bộ Tổng Tham mưu, từ đầu tháng 2-1975, các đơn vị quân chủ lực tăng cường cho chiến dịch Tây Nguyên đã đến các vị trí tập kết.
Lực lượng bộ đội chủ lực tham gia chiến dịch Tây Nguyên gồm có: 4 sư đoàn (10, 320, 316, 968), 4 trung đoàn bộ binh (95A, 95B, 25, 271), 5 trung đoàn pháo mặt đất và pháo cao xạ, 1 trung đoàn xe tăng, thiết giáp, 1 trung đoàn đặc công, 2 trung đoàn công binh, 1 trung đoàn thông tin và các đơn vị hậu cần, vận tải. Sư đoàn 3 bộ binh quân khu V có nhiệm vụ đẩy mạnh tác chiến phối hợp trên Đường số 19.
Để phối hợp với đòn tiến công quân sự, Tỉnh ủy Đăk Lăk đề ra kế hoạch cụ thể về chuẩn bị chiến trường, tổ chức nhiều đội công tác chính trị đi cùng bộ đội phát động quần chúng nổi dậy; sẵn sàng truyền đơn, lời kêu gọi, thông báo, kêu gọi binh sĩ địch ra hàng, trấn áp bọn ác ôn, chuẩn bị thành lập ủy ban Cách mạng ở vùng giải phóng. Ở Gia Lai và Kon Tum, Tỉnh ủy thành lập Ban chỉ đạo tác chiến để phối hợp với bộ đội chủ lực. Các đoàn công tác đều được chấn chỉnh tổ chức, tập huấn về chính trị, quân sự. Thực hiện kế hoạch nghi binh đã thống nhất với Bộ Tư lệnh mặt trận Tây Nguyên, Tỉnh ủy và Tỉnh đội Gia Lai, Kon Tum huy động hàng nghìn dân công đi làm đường hướng về thị xã và phao tin ta chuẩn bị đánh Kon Tum, Plâycu. Bộ đội địa phương tỉnh và dân quân du kích diệt một số đồn địch, mở rộng thêm vùng giải phóng, thu hút sự chú ý của địch lên hướng Bắc Tây Nguyên.

Sáng tai họ, điếc tai cày


   
U Cay reacted
Trả lờiTrích dẫn
Cô Cô
(@coco)
Công dân
Liễu ám hoa minh Cô Cô
Được ưa thích
Cư dân
Tài sản: 4998.65
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1134
Topic starter  

Trong khi lực lượng của ta đang tập trung một lực lượng cơ động lớn và ráo riết chuẩn bị tiến công Buôn Mê Thuột thì địch vẫn phán đoán sai ý đồ và mục tiêu tấn công của ta. Vào đầu năm 1975, do bị căng kéo trên khắp các chiến trường và bị thu hút lên phía
Bắc Tây Nguyên, lực lượng địch ở Buôn Mê Thuột chỉ có sở chỉ huy Sư đoàn 23 bộ binh, Trung đoàn 53 (thiếu một tiểu đoàn), 1 tiểu đoàn pháo binh, một thiết đoàn xe tăng thiết giáp (thiếu) và 9 tiểu đoàn bảo an. Các tướng tá chỉ huy Quân khu II của Quân đội Sài Gòn cho rằng, Buôn Mê Thuột không phải là mục tiêu tấn công chính của ta, khả năng bộ đội ta chưa đủ sức đánh chiếm một thị xã lớn có bố phòng kiên cố, nằm sâu trong hậu phương của họ như Buôn Mê Thuột. Từ tháng 2 -1975, phát hiện thấy hoạt động của ta ngày càng mạnh ở Bắc Tây Nguyên và những dấu hiệu tăng cường lực lượng ở Nam Tây Nguyên, các cơ quan tình báo của Mỹ - Thiệu tỏ ra lúng túng. Có nhiều ý kiến mâu thuẫn nhau khi phân tích tình hình, tìm hiểu ý định của ta. Viên đại tá trưởng phòng 2 (Quân khu II) cho rằng "tiến công vào Plâycu và Kon Tum chỉ là đòn nghi binh. Ý định thật sự của đối phương là đánh vào Buôn Mê Thuột". Tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân khu II, mặc dù còn hoài nghi ý kiến này cũng phải cho một trung đoàn về lùng sục ở phía Bắc thị xã Buôn Mê Thuột. Do bộ đội ta giữ bí mật tốt, địch không phát hiện được chủ lực của ta và do ta đẩy mạnh hoạt động ở Bắc Tây Nguyên nên sau mấy ngày lùng sục không có kết quả, trung đoàn này lại được rút về tăng cường phòng giữ Plâycu.
Như vậy là cho đến trước khi nổ súng mở màn chiến dịch Buôn Mê Thuột, ta vẫn giữ được thế chủ động, bất ngờ.

Sáng tai họ, điếc tai cày


   
U Cay reacted
Trả lờiTrích dẫn
Cô Cô
(@coco)
Công dân
Liễu ám hoa minh Cô Cô
Được ưa thích
Cư dân
Tài sản: 4998.65
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1134
Topic starter  

Ngày 17-2-1975, Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên họp bàn phương án tác chiến chiến dịch Tây Nguyên. Sau khi thảo luận, tính toán tất cả các yếu tố, dự kiến các tình huống, Bộ Chỉ huy chiến dịch quyết định sử dụng một số trung đoàn, sư đoàn đánh cắt các đường giao thông 14, 19, 21, thực hiện chia cắt chiến lược và chiến dịch giữa Tây Nguyên với đồng bằng khu V, giữa Nam và Bắc Tây Nguyên, đồng thời đẩy mạnh các hoạt động nghi binh chiến dịch nhằm giam chân, thu hút quân địch ở Bắc Tây Nguyên, tạo thế bất ngờ khi ta tiến đánh Buôn Mê Thuột.
Ngày 25-2-1975, Đại tướng Văn Tiến Dũng, Tổng Tham mưu trưởng, đại diện Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh ở tiền phương, thông qua quyết tâm và phương án tác chiến của Bộ Chỉ huy chiến dịch Tây Nguyên.
Cho đến cuối tháng 2, đầu tháng 3-1975, các bước thực hiện chiến dịch Tây Nguyên phát triển thuận lợi.

image

Đại tướng Văn Tiến Dũng, đồng chí Bùi San, đồng chí Huỳnh Văn Cần tại Sở chỉ huy mặt trận giải phóng Tây Nguyên 3.1975 - Ảnh tư liệu

Sáng tai họ, điếc tai cày


   
U Cay reacted
Trả lờiTrích dẫn
Cô Cô
(@coco)
Công dân
Liễu ám hoa minh Cô Cô
Được ưa thích
Cư dân
Tài sản: 4998.65
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1134
Topic starter  

Ngày 25-2-1975, quân ta tăng cường hoạt động nghi binh, Sư đoàn 968 diệt hai cứ điểm địch trên Đường 19 phía Tây Plâycu và bắn vào sân bay Cù Hanh. Ngày 4-3-1975, Trung đoàn 95A và Sư đoàn 3 Quân khu V tiêu diệt một loạt vị trí, cắt đường 19 ở An Khê. Địch cho biệt động ra dò tìm và bắn pháo vào chỗ nghi có quân ta. Đêm 5-3-1975, Trung đoàn 25 cắt đường 21 ở phía Đông Chư Cúc, diệt một đoàn xe 80 chiếc, Tây Nguyên bước đầu bị ta cô lập với đồng bằng. Ngày 7-3-1975, quân ta diệt cứ điểm Chư Xê (Bắc Buôn Hồ) trên đường 14. Ngày 8-3-1975, Trung đoàn 48, Sư đoàn 320 đánh chiếm chi khu quân sự Thuần Mần. Ngày 9-3-1975, Sư đoàn 10 nổ súng đánh chiếm quận lỵ Đức Lập. Trên hướng Bắc, quân ta tiêu diệt quận lỵ Than An; áp sát, uy hiếp thị xã Plâycu.
Đến ngày 9 tháng 3, quân ta đã cài xong thế chiến lược bao vây, chia cắt, cô lập Buôn Mê Thuột.
Trong khi đó, quân đội Sài Gòn vẫn tập trung vào hướng phòng thủ chính là Quân khu I (từ Đà Nẵng đến Trị Thiên). Ở Tây Nguyên, chính quyền Sài Gòn vẫn khẳng định hướng đối phó chính là Plâycu và Kon Tum. Sau khi quân Giải phóng tiến đánh Đức Lập, đẩy quân địch vào tình thế nguy khốn, Phạm Văn Phú, Tư lệnh Vùng II chiến thuật, vẫn cho rằng việc ta đánh Quảng Đức, uy hiếp Buôn Mê Thuột chỉ để nghi binh, tạo điều kiện để đánh Plâycu, Kon Tum, do vậy, việc chính lúc này là tăng cường mọi khả năng đối phó với quân ta ở trọng điểm là Kon Tum và Plâycu.

Sáng tai họ, điếc tai cày


   
U Cay reacted
Trả lờiTrích dẫn
Cô Cô
(@coco)
Công dân
Liễu ám hoa minh Cô Cô
Được ưa thích
Cư dân
Tài sản: 4998.65
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1134
Topic starter  

Hoạt động của quân Giải phóng trên các hướng nhịp nhàng, đúng kế hoạch. Việc nghi binh chiến lược rất thành công. Trong cuộc đấu trí đầu tiên, Bộ Tham mưu quân đội Sài Gòn đã phạm sai lầm. Buôn Mê Thuột sơ hở lại càng sơ hở. Đúng 1 giờ 55 phút ngày 10-3-1975, Trung đoàn đặc công 198, được tăng cường các phân đội hỏa lực B72, ĐKZ, nổ súng đánh chiếm sân bay thị xã, sân bay Hòa Bình, khu kho Mai Hắc Đế, mở màn cuộc tiến công Buôn Mê Thuột. Bộ đội pháo binh bắn phá mãnh liệt các vị trí địch trong thị xã. Cuộc pháo kích kéo dài hơn 4 giờ liền, làm rối loạn và tê liệt sở chỉ huy của địch. Từ các vị trí bàn đạp trên hướng Đông Bắc, Tây Bắc, Tây và Tây Nam, các mũi tiến công của lực lượng binh chủng hợp thành (gồm 12 trung đoàn bộ binh và các binh chủng khác) nhanh chóng thọc sâu vào trung tâm, đánh chiếm các mục tiêu. Chiến sự diễn ra ác liệt ờ khu vực Ngã Sáu, khu hành chính, khu thiết giáp, Sở chỉ huy tiểu khu Đắk Lắk, hậu cứ Sư đoàn 23.

image

Bộ đội ta đánh chiếm sân bay Buôn Mê Thuột trong Chiến dịch Tây Nguyên - Mở đầu cho cuộc Tổng tiến công mùa Xuân năm 1975. Ảnh tư liệu

Sáng tai họ, điếc tai cày


   
U Cay reacted
Trả lờiTrích dẫn
Cô Cô
(@coco)
Công dân
Liễu ám hoa minh Cô Cô
Được ưa thích
Cư dân
Tài sản: 4998.65
Tham gia: 3 năm trước
Bài viết: 1134
Topic starter  

Buôn Mê Thuột, tỉnh lỵ tỉnh Đăk Lăk, là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của Tây Nguyên, có vị trí quan trọng về quân sự. Thị xã nằm trên ngã ba đường chiến lược số 21 nối với Đường số 1 đi Nha Trang và Đường số 14, phía Bắc lên Plâycu, phía Nam xuống miền Đông Nam Bộ. Dân số khoảng 96.000 người. Địch bố trí ở đây khoảng 8.400 tên, gồm một trung đoàn bộ binh, hai chi đoàn thiết giáp, hai tiểu đoàn pháo binh, Sở Chỉ huy Sư đoàn 23, Liên đoàn biệt động 21, cùng các lực lượng bảo an, cảnh sát và căn cứ Trung đoàn 45 bộ binh, Trung đoàn 8 thiết giáp, Trung đoàn 222 pháo binh với hai sân bay (sân bay thị xã và sân bay Hòa Bình).
Chọn mục tiêu tấn công chủ yếu là Buôn Mê Thuột, Bộ Chỉ huy tối cao của cách mạng dự kiến sẽ làm đảo lộn hoàn toàn thế phòng ngự của địch ở Tây Nguyên, rung chuyển toàn bộ chiến trường miền Nam bằng một đòn điểm huyệt.
Cho đến lúc này, khi các con đường bộ đến thị xã đều đã bị cắt, các cấp chi huy quân đội Sài Gòn vẫn cho rằng, mức độ tấn công của ta không hơn mùa Xuân 1968. Nếu trụ được 3-4 ngày thì có thể đẩy lùi "Việt cộng" ra khỏi thị xã. Và vì vậy, họ ra lệnh cho binh lính còn lại "tử thủ Buôn Mê Thuột bằng mọi giá". Khi Nguyễn Văn Thiệu và các tướng tá quân đội Sài Gòn tỉnh ra thì đã quá muộn. Trong ngày 10-3-1975, hầu hết các mục tiêu trong thị xã, trừ Sở Chỉ huy Sư đoàn 23, đều bị quân Giải phóng đánh chiếm.

 

Sáng tai họ, điếc tai cày


   
U Cay reacted
Trả lờiTrích dẫn
Trang 1 / 5
Chia sẻ: