Trời trời! Hóa ra nhiều cách vậy ah, vận dụng vào vật các môn thuật số. Cám ơn @Cô Cô nhiều nhiều
Cô thương, cho em còm cái nha! Em ko biết gì văn học và tất nhiên cả truyện Kiều. Nhưng hồi bé em nghe bà nội kể xưa các cụ hay bói Kiều vào đầu năm, có 02 cách:
1. Mở quyển truyện Kiều (vô thức) đến đoạn nào trong truyện thì luận tình hình năm đó.
2. Đi xem diễn Kiều, ko vào xem từ đầu mà vào theo ý thích (khúc giữa, khúc lửng lơ nào đó), vào gặp đang diễn đến đoạn nào thì theo đó luận tình hình.
Không biết có đúng không ah?
Cách 1 em thấy nhiều nhất, cầm quyển truyện Kiều, khấn mấy câu kiểu mong cô Kiều chỉ đường dẫn lối rồi nhắm mắt giở đại 1 trang, nhìn vào 1 đoạn bất kỳ, đoạn bất kỳ tính bằng 2 hoặc 4 câu vần, đọc và ngẫm luận.
có chút liên quan, cụ cho em hỏi giờ học đánh tổ tôm ở đâu ạ“Làm trai biết đánh tổ tôm
Uống trà Mạn Hảo, ngâm nôm Thúy Kiều”Có thể khó thống kê chính xác số người thuộc Truyện Kiều, nhưng không khó để khẳng định bất cứ xóm thôn Việt Nam nào cũng biết Truyện Kiều; bất kỳ thế hệ người Việt nào cũng từng đọc, từng nghe, từng thuộc ít thì dăm ba câu, dài thì cả cuốn Truyện Kiều dài 3.254 câu lục bát, kể cả đọc ngược từ câu cuối cùng số 3.253-3.254 “Lời quê chắp nhặt dông dài/ Mua vui cũng được một vài trống canh” lên câu số 1-2 “Trăm năm trong cõi người ta/ Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”.
Đào Duy Anh cho rằng: “Truyện Kiều văn chương đủ tính nghiêm trang, đường hoàng, điêu luyện, khiến cho kẻ học thức phải khâm phục và yêu mến, mà lại đủ cả tính giản dị, phổ thông để khiến cho bình dân hiểu được mà thưởng thức”.
P/S: Các cụ giờ chắc vẫn đánh tổ tôm, vẫn trà thuốc hằng ngày, nhưng có bác nào ngâm Nôm Thúy Kiều ko
Nếu lão đã vươt qua môn "chắn đại cương", "phỏm chuyên ngành" rồi, thì việc học tổ tôm không có khó. Món phỏm (tá lả) là được phát triển từ môn tổ tôm đấy ạ.
Học tổ tôm nếu mà học theo kiểu lý thuyết thì lâu lên tay, cứ thực chiến thôi. Trước đây muốn thực chiến thì phải lang thang các làng quê ở Bắc Bộ hoặc Bắc Trung Bộ thì mới có các lão, các cụ chơi tổ tôm. Vì nhiều nơi hay chơi chắn hơn (thời những năm 9X ở HN thì SV các trường BK, XD, GT... đa phần là rành môn này)
Còn giờ đây đã có phương án học và chơi online, lão vào trang này nhé
https://chanphom.com/game/totom
Môn này chắc em cũng chơi được vì em thấy mấy người định dạy em trình bày xong em thấy giống Mạt chược ghê gớm, chỉ có khác là cách gọi hơi lạ, em chơi mạt chược cũng không biết gọi, ngày còn lượn TQ, đánh ù cũng phải có tay TQ khác hô hộ.
Cụ thích Kiều "Em cũng thích Kiều", vậy chắc biết rõ về Kiều. Em tìm đọc truyện Kiều, có đoạn nào chưa thủng về Kiều em nhờ cụ chỉ bảo thêm cho tường nhaDạ sorry chị @coco vì đã cắt ngang thớt của chị. Em cũng thích Kiều và thích nghe ngâm Kiều, theo em tìm kiếm thì có 2 nhóm ngâm Kiểu rất hay. Đó là ở Miền Bắc với các giọng ngâm Trần Thị Tuyết, Nhật Quỳnh, Ngọc Quang, Thanh Hương, Thành Trung, Ngọc Hoa và Phương Lan. Còn trong Nam và hải ngoại là các giọng ngâm Hồng Vân, Tô Kiều Ngân, Đoàn Yên Linh, Thạch Cầm, Tất Tùng và Bảo Cường.
Tiếc là trong quá trình tìm và sưu tập em vẫn chưa tìm được 2 bộ full của 2 nhóm ngâm trên. Hy vọng một ngày đẹp giời sẽ tìm được.
Cụ thích Kiều "Em cũng thích Kiều", vậy chắc biết rõ về Kiều. Em tìm đọc truyện Kiều, có đoạn nào chưa thủng về Kiều em nhờ cụ chỉ bảo thêm cho tường nhaDạ sorry chị @coco vì đã cắt ngang thớt của chị. Em cũng thích Kiều và thích nghe ngâm Kiều, theo em tìm kiếm thì có 2 nhóm ngâm Kiểu rất hay. Đó là ở Miền Bắc với các giọng ngâm Trần Thị Tuyết, Nhật Quỳnh, Ngọc Quang, Thanh Hương, Thành Trung, Ngọc Hoa và Phương Lan. Còn trong Nam và hải ngoại là các giọng ngâm Hồng Vân, Tô Kiều Ngân, Đoàn Yên Linh, Thạch Cầm, Tất Tùng và Bảo Cường.
Tiếc là trong quá trình tìm và sưu tập em vẫn chưa tìm được 2 bộ full của 2 nhóm ngâm trên. Hy vọng một ngày đẹp giời sẽ tìm được.
. Hay thành lập hội chưa bao giờ đọc truyện Kiều và bây giờ bắt đầu đọc để thảo luận nhỉ
Em cũng chẳng thuộc Kiều mấy, chỉ nhớ lõm bõm
Ví dụ đoạn này:
Mụ rằng: "Ai cũng như ai,
Người ta ai mất tiền hoài đến đây?
ở trong còn lắm điều hay
Nỗi đêm khép hở nỗi ngày riêng chung
Này con thuộc lấy làm lòng
Vành ngoài bảy chữ vành trong tám nghề"
Cụ thích Kiều "Em cũng thích Kiều", vậy chắc biết rõ về Kiều. Em tìm đọc truyện Kiều, có đoạn nào chưa thủng về Kiều em nhờ cụ chỉ bảo thêm cho tường nhaDạ sorry chị @coco vì đã cắt ngang thớt của chị. Em cũng thích Kiều và thích nghe ngâm Kiều, theo em tìm kiếm thì có 2 nhóm ngâm Kiểu rất hay. Đó là ở Miền Bắc với các giọng ngâm Trần Thị Tuyết, Nhật Quỳnh, Ngọc Quang, Thanh Hương, Thành Trung, Ngọc Hoa và Phương Lan. Còn trong Nam và hải ngoại là các giọng ngâm Hồng Vân, Tô Kiều Ngân, Đoàn Yên Linh, Thạch Cầm, Tất Tùng và Bảo Cường.
Tiếc là trong quá trình tìm và sưu tập em vẫn chưa tìm được 2 bộ full của 2 nhóm ngâm trên. Hy vọng một ngày đẹp giời sẽ tìm được.
. Hay thành lập hội chưa bao giờ đọc truyện Kiều và bây giờ bắt đầu đọc để thảo luận nhỉ
Em cũng chẳng thuộc Kiều mấy, chỉ nhớ lõm bõm
Ví dụ đoạn này:
Mụ rằng: "Ai cũng như ai,
Người ta ai mất tiền hoài đến đây?
ở trong còn lắm điều hay
Nỗi đêm khép hở nỗi ngày riêng chung
Này con thuộc lấy làm lòng
Vành ngoài bảy chữ vành trong tám nghề"
Đoạn này nằm trong đoạn tả cảnh Tú bà dạy Kiều vào nghề sau khi Kiều được bán cho lầu xanh của mụ Tú.
Vừa tuần nguyệt sáng gương trong,
Tú bà ghé lại thong dong dặn dò:
“Nghề chơi cũng lắm công phu,
Làng chơi ta phải biết cho đủ điều.”
Nàng rằng: “Mưa gió dập dìu,
Liều thân thì cũng phải liều thế thôi!”
Mụ rằng: “Ai cũng như ai,
Người ta ai mất tiền hoài đến đây?
Ở trong còn lắm điều hay,
Nỗi đêm khép mở nỗi ngày riêng chung.
Này con thuộc lấy làm lòng,
Vàng ngoài bảy chữ vành trong tám nghề.
Chơi cho liễu chán hoa chê,
Cho lăn lóc đá cho mê mẩn đời.
Khi khóe hạnh khi nét ngài,
Khi ngâm ngợi nguyệt khi cười cợt hoa.
Ðều là nghề nghiệp trong nhà,
Ðủ ngần ấy nết mới là người soi.”
Gót đầu vâng dạy mấy lời,
Dường chau nét nguyệt dường phai vẻ hồng.
Những nghe nói đã thẹn thùng,
Nước đời lắm nỗi lạ lùng khắt khe!
Xót mình cửa các buồng khuê,
Vỡ lòng học lấy những nghề nghiệp hay!
Để bắt đầu hành nghề. trước tiên Kiều phải học đã chứ. Vì “nghề chơi cũng lắm công phu”, nếu không chịu khó học để “biết cho đủ điều”, và nếu “ai cũng như ai” thì “người ta ai mất tiền hoài đến đây?”... Nghe vậy thì đành phải học thôi. Chao ơi, thân “cửa các buồng khuê” mà phải “thuộc lấy làm lòng” “bảy chữ tám nghề”, “nước đời lắm nỗi lạ lùng khắt khe!” thật đấy. Chẳng bao lâu Kiều tốt nghiệp, “đủ ngần ấy nết”, thành ra một “người soi”. Nghe có hàng mới vừa đẹp vừa lạ lùng, ong bướm tới tấp bay vào động Tú bà hưởng thụ.
"Mobilis in Mobile" ― Jules Verne
Môn này chắc em cũng chơi được vì em thấy mấy người định dạy em trình bày xong em thấy giống Mạt chược ghê gớm, chỉ có khác là cách gọi hơi lạ, em chơi mạt chược cũng không biết gọi, ngày còn lượn TQ, đánh ù cũng phải có tay TQ khác hô hộ.
Mạt chược ra đời sau tổ tôm và có điểm giống tổ tôm là việc ghép phu dọc phu ngang, nhưng quy tắc, luật lệ, cách ù và xướng ù của mạt chược nhiều biến hơn tổ tôm nhiều. Em cũng có xem chơi mạt chược thì thấy nó khó chơi hơi tổ tôm, mặc dù số quân trên bài với mỗi người của mạt chược chỉ có 13 cây so với 20 cây của tổ tôm nhưng các cước sắc và tính điểm của mạt chược đa dạng và phong phú hơn tổ tôm.
Đối với tổ tôm thì khó học nhất là phần bất thực với các quy tắc xin chén, trả chén và cách hô khi ù, cái này hay gây nhầm lẫn cho người chơi.
"Mobilis in Mobile" ― Jules Verne
Đoạn này nằm trong đoạn tả cảnh Tú bà dạy Kiều vào nghề sau khi Kiều được bán cho lầu xanh của mụ Tú.
Vừa tuần nguyệt sáng gương trong,
Tú bà ghé lại thong dong dặn dò:
“Nghề chơi cũng lắm công phu,
Làng chơi ta phải biết cho đủ điều.”
Nàng rằng: “Mưa gió dập dìu,
Liều thân thì cũng phải liều thế thôi!”
Mụ rằng: “Ai cũng như ai,
Người ta ai mất tiền hoài đến đây?
Ở trong còn lắm điều hay,
Nỗi đêm khép mở nỗi ngày riêng chung.
Này con thuộc lấy làm lòng,
Vàng ngoài bảy chữ vành trong tám nghề.
Chơi cho liễu chán hoa chê,
Cho lăn lóc đá cho mê mẩn đời.
Khi khóe hạnh khi nét ngài,
Khi ngâm ngợi nguyệt khi cười cợt hoa.
Ðều là nghề nghiệp trong nhà,
Ðủ ngần ấy nết mới là người soi.”
Gót đầu vâng dạy mấy lời,
Dường chau nét nguyệt dường phai vẻ hồng.
Những nghe nói đã thẹn thùng,
Nước đời lắm nỗi lạ lùng khắt khe!
Xót mình cửa các buồng khuê,
Vỡ lòng học lấy những nghề nghiệp hay!
Để bắt đầu hành nghề. trước tiên Kiều phải học đã chứ. Vì “nghề chơi cũng lắm công phu”, nếu không chịu khó học để “biết cho đủ điều”, và nếu “ai cũng như ai” thì “người ta ai mất tiền hoài đến đây?”... Nghe vậy thì đành phải học thôi. Chao ơi, thân “cửa các buồng khuê” mà phải “thuộc lấy làm lòng” “bảy chữ tám nghề”, “nước đời lắm nỗi lạ lùng khắt khe!” thật đấy. Chẳng bao lâu Kiều tốt nghiệp, “đủ ngần ấy nết”, thành ra một “người soi”. Nghe có hàng mới vừa đẹp vừa lạ lùng, ong bướm tới tấp bay vào động Tú bà hưởng thụ.
Gõ nhanh quá nên em sai dòng này "Vàng ngoài bảy chữ vành trong tám nghề.", chính xác phải là "Vành ngoài bảy chữ vành trong tám nghề.", do không đủ thời gian nên em đánh quote lại. Mong các lão thông cảm.
Tiện thể em cũng chém đoạn này hầu các lão. Để biết rằng các cụ ngày xưa đi chơi lầu xanh cũng là thưởng thức một môn nghệ thuật đích thực.
"Vành ngoài" là bề ngoài, tức là cách đối xử bên ngoài với khách. "Bảy chữ" là bảy việc ghi bằng chữ để dễ nhớ. Bảy chữ là:
1. Khấp: khóc tỉ tê làm cho khách xúc động thương xót.
2. Tiễn: giả cắt tóc thề nguyền để khách tin.
3. Thích: viết tên khách vào tay mình giả ý thương yêu.
4. Thiêu: đốt hương thề nguyền với khách
5. Giá: hẹn hò lấy khách làm chồng, giả xin làm vợ lẽ
6. Tẩu: rủ khách đi trốn giả như giữ lòng chung thuỷ
7. Tử: giả liều chết để khách khuyên ngăn.
"Vành trong" là bề trong, tức là cách đối xử bên trong với khách. "Tám nghề" là cách ân ái với khách, tuỳ từng tính cách của mỗi đối tượng, để làm cho khách khoan khoái nhất. "Tám nghề" là:
1. Tiếp người nhỏ bé thì dùng cách "kích cổ thôi hoa"
2. Tiếp người to béo thì dùng cách "Kim liên song toả"
3. Tiếp người nóng vội thì dùng cách "đại xiển kỳ cổ"
4. Tiếp người chậm chạp thì dùng cách "mạn đả khinh khao"
5. Tiếp người mới thì dùng cách "khẩn khuyên tam trật"
6. Tiếp người thạo đời thì dùng cách "tả trì hữu trì"
7. Tiếp người si tình thì dùng cách "toả tâm truy hồn"
8. Tiếp người lạnh lùng thì dùng cách "nhiếp thần nhiệm toả"
Qua ngâm cứu cái "tám nghề" này thì em mới phát hiện ra là các kỹ nữ ngày xưa đề cao việc có được 1 tập khách hàng quen thuộc, với mỗi loại khách đều có những kỹ thuật riêng biệt để khách cảm thấy vui vẻ nhất khi ra về và chắc chắn sẽ quay lại lần sau.
"Mobilis in Mobile" ― Jules Verne
Đoạn này nằm trong đoạn tả cảnh Tú bà dạy Kiều vào nghề sau khi Kiều được bán cho lầu xanh của mụ Tú.
Vừa tuần nguyệt sáng gương trong,
Tú bà ghé lại thong dong dặn dò:
“Nghề chơi cũng lắm công phu,
Làng chơi ta phải biết cho đủ điều.”
Nàng rằng: “Mưa gió dập dìu,
Liều thân thì cũng phải liều thế thôi!”
Mụ rằng: “Ai cũng như ai,
Người ta ai mất tiền hoài đến đây?
Ở trong còn lắm điều hay,
Nỗi đêm khép mở nỗi ngày riêng chung.
Này con thuộc lấy làm lòng,
Vàng ngoài bảy chữ vành trong tám nghề.
Chơi cho liễu chán hoa chê,
Cho lăn lóc đá cho mê mẩn đời.
Khi khóe hạnh khi nét ngài,
Khi ngâm ngợi nguyệt khi cười cợt hoa.
Ðều là nghề nghiệp trong nhà,
Ðủ ngần ấy nết mới là người soi.”
Gót đầu vâng dạy mấy lời,
Dường chau nét nguyệt dường phai vẻ hồng.
Những nghe nói đã thẹn thùng,
Nước đời lắm nỗi lạ lùng khắt khe!
Xót mình cửa các buồng khuê,
Vỡ lòng học lấy những nghề nghiệp hay!
Để bắt đầu hành nghề. trước tiên Kiều phải học đã chứ. Vì “nghề chơi cũng lắm công phu”, nếu không chịu khó học để “biết cho đủ điều”, và nếu “ai cũng như ai” thì “người ta ai mất tiền hoài đến đây?”... Nghe vậy thì đành phải học thôi. Chao ơi, thân “cửa các buồng khuê” mà phải “thuộc lấy làm lòng” “bảy chữ tám nghề”, “nước đời lắm nỗi lạ lùng khắt khe!” thật đấy. Chẳng bao lâu Kiều tốt nghiệp, “đủ ngần ấy nết”, thành ra một “người soi”. Nghe có hàng mới vừa đẹp vừa lạ lùng, ong bướm tới tấp bay vào động Tú bà hưởng thụ.
Gõ nhanh quá nên em sai dòng này "Vàng ngoài bảy chữ vành trong tám nghề.", chính xác phải là "Vành ngoài bảy chữ vành trong tám nghề.", do không đủ thời gian nên em đánh quote lại. Mong các lão thông cảm.
Tiện thể em cũng chém đoạn này hầu các lão. Để biết rằng các cụ ngày xưa đi chơi lầu xanh cũng là thưởng thức một môn nghệ thuật đích thực.
"Vành ngoài" là bề ngoài, tức là cách đối xử bên ngoài với khách. "Bảy chữ" là bảy việc ghi bằng chữ để dễ nhớ. Bảy chữ là:
1. Khấp: khóc tỉ tê làm cho khách xúc động thương xót.
2. Tiễn: giả cắt tóc thề nguyền để khách tin.
3. Thích: viết tên khách vào tay mình giả ý thương yêu.
4. Thiêu: đốt hương thề nguyền với khách
5. Giá: hẹn hò lấy khách làm chồng, giả xin làm vợ lẽ
6. Tẩu: rủ khách đi trốn giả như giữ lòng chung thuỷ
7. Tử: giả liều chết để khách khuyên ngăn."Vành trong" là bề trong, tức là cách đối xử bên trong với khách. "Tám nghề" là cách ân ái với khách, tuỳ từng tính cách của mỗi đối tượng, để làm cho khách khoan khoái nhất. "Tám nghề" là:
1. Tiếp người nhỏ bé thì dùng cách "kích cổ thôi hoa"
2. Tiếp người to béo thì dùng cách "Kim liên song toả"
3. Tiếp người nóng vội thì dùng cách "đại xiển kỳ cổ"
4. Tiếp người chậm chạp thì dùng cách "mạn đả khinh khao"
5. Tiếp người mới thì dùng cách "khẩn khuyên tam trật"
6. Tiếp người thạo đời thì dùng cách "tả trì hữu trì"
7. Tiếp người si tình thì dùng cách "toả tâm truy hồn"
8. Tiếp người lạnh lùng thì dùng cách "nhiếp thần nhiệm toả"Qua ngâm cứu cái "tám nghề" này thì em mới phát hiện ra là các kỹ nữ ngày xưa đề cao việc có được 1 tập khách hàng quen thuộc, với mỗi loại khách đều có những kỹ thuật riêng biệt để khách cảm thấy vui vẻ nhất khi ra về và chắc chắn sẽ quay lại lần sau.
Đúng là nghề chơi cũng lắm công phu các cụ nhỉ
Đoạn này nằm trong đoạn tả cảnh Tú bà dạy Kiều vào nghề sau khi Kiều được bán cho lầu xanh của mụ Tú.
Vừa tuần nguyệt sáng gương trong,
Tú bà ghé lại thong dong dặn dò:
“Nghề chơi cũng lắm công phu,
Làng chơi ta phải biết cho đủ điều.”
Nàng rằng: “Mưa gió dập dìu,
Liều thân thì cũng phải liều thế thôi!”
Mụ rằng: “Ai cũng như ai,
Người ta ai mất tiền hoài đến đây?
Ở trong còn lắm điều hay,
Nỗi đêm khép mở nỗi ngày riêng chung.
Này con thuộc lấy làm lòng,
Vàng ngoài bảy chữ vành trong tám nghề.
Chơi cho liễu chán hoa chê,
Cho lăn lóc đá cho mê mẩn đời.
Khi khóe hạnh khi nét ngài,
Khi ngâm ngợi nguyệt khi cười cợt hoa.
Ðều là nghề nghiệp trong nhà,
Ðủ ngần ấy nết mới là người soi.”
Gót đầu vâng dạy mấy lời,
Dường chau nét nguyệt dường phai vẻ hồng.
Những nghe nói đã thẹn thùng,
Nước đời lắm nỗi lạ lùng khắt khe!
Xót mình cửa các buồng khuê,
Vỡ lòng học lấy những nghề nghiệp hay!
Để bắt đầu hành nghề. trước tiên Kiều phải học đã chứ. Vì “nghề chơi cũng lắm công phu”, nếu không chịu khó học để “biết cho đủ điều”, và nếu “ai cũng như ai” thì “người ta ai mất tiền hoài đến đây?”... Nghe vậy thì đành phải học thôi. Chao ơi, thân “cửa các buồng khuê” mà phải “thuộc lấy làm lòng” “bảy chữ tám nghề”, “nước đời lắm nỗi lạ lùng khắt khe!” thật đấy. Chẳng bao lâu Kiều tốt nghiệp, “đủ ngần ấy nết”, thành ra một “người soi”. Nghe có hàng mới vừa đẹp vừa lạ lùng, ong bướm tới tấp bay vào động Tú bà hưởng thụ.
Gõ nhanh quá nên em sai dòng này "Vàng ngoài bảy chữ vành trong tám nghề.", chính xác phải là "Vành ngoài bảy chữ vành trong tám nghề.", do không đủ thời gian nên em đánh quote lại. Mong các lão thông cảm.
Tiện thể em cũng chém đoạn này hầu các lão. Để biết rằng các cụ ngày xưa đi chơi lầu xanh cũng là thưởng thức một môn nghệ thuật đích thực.
"Vành ngoài" là bề ngoài, tức là cách đối xử bên ngoài với khách. "Bảy chữ" là bảy việc ghi bằng chữ để dễ nhớ. Bảy chữ là:
1. Khấp: khóc tỉ tê làm cho khách xúc động thương xót.
2. Tiễn: giả cắt tóc thề nguyền để khách tin.
3. Thích: viết tên khách vào tay mình giả ý thương yêu.
4. Thiêu: đốt hương thề nguyền với khách
5. Giá: hẹn hò lấy khách làm chồng, giả xin làm vợ lẽ
6. Tẩu: rủ khách đi trốn giả như giữ lòng chung thuỷ
7. Tử: giả liều chết để khách khuyên ngăn."Vành trong" là bề trong, tức là cách đối xử bên trong với khách. "Tám nghề" là cách ân ái với khách, tuỳ từng tính cách của mỗi đối tượng, để làm cho khách khoan khoái nhất. "Tám nghề" là:
1. Tiếp người nhỏ bé thì dùng cách "kích cổ thôi hoa"
2. Tiếp người to béo thì dùng cách "Kim liên song toả"
3. Tiếp người nóng vội thì dùng cách "đại xiển kỳ cổ"
4. Tiếp người chậm chạp thì dùng cách "mạn đả khinh khao"
5. Tiếp người mới thì dùng cách "khẩn khuyên tam trật"
6. Tiếp người thạo đời thì dùng cách "tả trì hữu trì"
7. Tiếp người si tình thì dùng cách "toả tâm truy hồn"
8. Tiếp người lạnh lùng thì dùng cách "nhiếp thần nhiệm toả"Qua ngâm cứu cái "tám nghề" này thì em mới phát hiện ra là các kỹ nữ ngày xưa đề cao việc có được 1 tập khách hàng quen thuộc, với mỗi loại khách đều có những kỹ thuật riêng biệt để khách cảm thấy vui vẻ nhất khi ra về và chắc chắn sẽ quay lại lần sau.
Em định post chi tiết hơn về 7 chữ, 8 nghề, nhưng thôi, sợ nhạy cảm, hehe
Sáng tai họ, điếc tai cày
Cụ thích Kiều "Em cũng thích Kiều", vậy chắc biết rõ về Kiều. Em tìm đọc truyện Kiều, có đoạn nào chưa thủng về Kiều em nhờ cụ chỉ bảo thêm cho tường nhaDạ sorry chị @coco vì đã cắt ngang thớt của chị. Em cũng thích Kiều và thích nghe ngâm Kiều, theo em tìm kiếm thì có 2 nhóm ngâm Kiểu rất hay. Đó là ở Miền Bắc với các giọng ngâm Trần Thị Tuyết, Nhật Quỳnh, Ngọc Quang, Thanh Hương, Thành Trung, Ngọc Hoa và Phương Lan. Còn trong Nam và hải ngoại là các giọng ngâm Hồng Vân, Tô Kiều Ngân, Đoàn Yên Linh, Thạch Cầm, Tất Tùng và Bảo Cường.
Tiếc là trong quá trình tìm và sưu tập em vẫn chưa tìm được 2 bộ full của 2 nhóm ngâm trên. Hy vọng một ngày đẹp giời sẽ tìm được.
. Hay thành lập hội chưa bao giờ đọc truyện Kiều và bây giờ bắt đầu đọc để thảo luận nhỉ
Cụ đọc đi, bàn luận, lý giải về Kiều thì chắc liên miên ko dứt được, chưa kể còn rất nhiều thú chơi hay được vận dụng từ Kiều, như đố Kiều, lẩy Kiều, tập Kiều,... mà ai cũng có thể thực hiện được.
Sáng tai họ, điếc tai cày
(Tiếp theo Bói Kiều)
Các câu thơ tập Kiều đáp án cho các cách bói trên.
(Tập Kiều hiểu đơn giản là lựa chọn một số câu Kiều, ở những chỗ khác nhau, nối vần lại được với nhau, tình ý nhất quán để tạo thành một bài thơ mới có ý nghĩa, theo một chủ đề nhất định. Chi tiết em sẽ post sau trong mục Tập Kiều).
1. CÀN Xem vận hạn trong một năm, tốt hay xấu
Câu 1: Sớm khuya lá bối phướn mây,
Muối dưa đắp đổi tháng ngày thong dong.
Câu 2: Nữa khi giông tố phũ phàng,
Sư càng nể mặt, nàng càng vững chân.
Câu 3: Ào ào đổ lộc rung cây,
Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào.
Câu 4: Gìn vàng giữ ngọc cho hay,
Vầng đông trông đã đứng ngay nóc nhà.
Câu 5: Mặt nhìn mặt càng thêm tươi,
Bên lời vạn phúc bên lời hàn huyên.
Câu 6: Nghĩ mình phận mỏng cánh chuồn,
Khuôn xanh biết có vuông tròn mà hay
Câu 7: Một mình lưỡng lự canh chầy,
Hay là khổ tận đến ngày cam lai
Câu 8: Ngọn đèn khi tỏ khi mờ,
Lầm người cho đến bây giờ mới thôi
Câu 9: Mừng thầm cờ đã đến tay
Phúc nào nhắc được giá này cho ngang
Câu 10: Công tư đôi lẽ đều xong,
Gót tiên phút đã thoát vòng trần ai
Câu 11: Tính bài lót đó luồn đây,
Gặp cơn vạ gió tai bay bất kỳ
Câu 12: Anh hoa phát tiết ra ngoài,
Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa
Câu 13: Hoa hương càng tỏ thức hồng,
Cuối tường dường có nẻo thông mới rào
Câu 14: Xắn tay mở khóa động đào,
Rẽ mây trông tỏ lối vào Thiên-thai
Câu 15: Sự đâu sóng gió bất kỳ,
Tiền lưng đã sẵn việc gì chẳng xong
Câu 16: Tiễn đưa một chén quan hà,
Miệng người đã lắm tin nhà thì không
Sáng tai họ, điếc tai cày
Đoạn này nằm trong đoạn tả cảnh Tú bà dạy Kiều vào nghề sau khi Kiều được bán cho lầu xanh của mụ Tú.
Vừa tuần nguyệt sáng gương trong,
Tú bà ghé lại thong dong dặn dò:
“Nghề chơi cũng lắm công phu,
Làng chơi ta phải biết cho đủ điều.”
Nàng rằng: “Mưa gió dập dìu,
Liều thân thì cũng phải liều thế thôi!”
Mụ rằng: “Ai cũng như ai,
Người ta ai mất tiền hoài đến đây?
Ở trong còn lắm điều hay,
Nỗi đêm khép mở nỗi ngày riêng chung.
Này con thuộc lấy làm lòng,
Vàng ngoài bảy chữ vành trong tám nghề.
Chơi cho liễu chán hoa chê,
Cho lăn lóc đá cho mê mẩn đời.
Khi khóe hạnh khi nét ngài,
Khi ngâm ngợi nguyệt khi cười cợt hoa.
Ðều là nghề nghiệp trong nhà,
Ðủ ngần ấy nết mới là người soi.”
Gót đầu vâng dạy mấy lời,
Dường chau nét nguyệt dường phai vẻ hồng.
Những nghe nói đã thẹn thùng,
Nước đời lắm nỗi lạ lùng khắt khe!
Xót mình cửa các buồng khuê,
Vỡ lòng học lấy những nghề nghiệp hay!
Để bắt đầu hành nghề. trước tiên Kiều phải học đã chứ. Vì “nghề chơi cũng lắm công phu”, nếu không chịu khó học để “biết cho đủ điều”, và nếu “ai cũng như ai” thì “người ta ai mất tiền hoài đến đây?”... Nghe vậy thì đành phải học thôi. Chao ơi, thân “cửa các buồng khuê” mà phải “thuộc lấy làm lòng” “bảy chữ tám nghề”, “nước đời lắm nỗi lạ lùng khắt khe!” thật đấy. Chẳng bao lâu Kiều tốt nghiệp, “đủ ngần ấy nết”, thành ra một “người soi”. Nghe có hàng mới vừa đẹp vừa lạ lùng, ong bướm tới tấp bay vào động Tú bà hưởng thụ.
Gõ nhanh quá nên em sai dòng này "Vàng ngoài bảy chữ vành trong tám nghề.", chính xác phải là "Vành ngoài bảy chữ vành trong tám nghề.", do không đủ thời gian nên em đánh quote lại. Mong các lão thông cảm.
Tiện thể em cũng chém đoạn này hầu các lão. Để biết rằng các cụ ngày xưa đi chơi lầu xanh cũng là thưởng thức một môn nghệ thuật đích thực.
"Vành ngoài" là bề ngoài, tức là cách đối xử bên ngoài với khách. "Bảy chữ" là bảy việc ghi bằng chữ để dễ nhớ. Bảy chữ là:
1. Khấp: khóc tỉ tê làm cho khách xúc động thương xót.
2. Tiễn: giả cắt tóc thề nguyền để khách tin.
3. Thích: viết tên khách vào tay mình giả ý thương yêu.
4. Thiêu: đốt hương thề nguyền với khách
5. Giá: hẹn hò lấy khách làm chồng, giả xin làm vợ lẽ
6. Tẩu: rủ khách đi trốn giả như giữ lòng chung thuỷ
7. Tử: giả liều chết để khách khuyên ngăn."Vành trong" là bề trong, tức là cách đối xử bên trong với khách. "Tám nghề" là cách ân ái với khách, tuỳ từng tính cách của mỗi đối tượng, để làm cho khách khoan khoái nhất. "Tám nghề" là:
1. Tiếp người nhỏ bé thì dùng cách "kích cổ thôi hoa"
2. Tiếp người to béo thì dùng cách "Kim liên song toả"
3. Tiếp người nóng vội thì dùng cách "đại xiển kỳ cổ"
4. Tiếp người chậm chạp thì dùng cách "mạn đả khinh khao"
5. Tiếp người mới thì dùng cách "khẩn khuyên tam trật"
6. Tiếp người thạo đời thì dùng cách "tả trì hữu trì"
7. Tiếp người si tình thì dùng cách "toả tâm truy hồn"
8. Tiếp người lạnh lùng thì dùng cách "nhiếp thần nhiệm toả"Qua ngâm cứu cái "tám nghề" này thì em mới phát hiện ra là các kỹ nữ ngày xưa đề cao việc có được 1 tập khách hàng quen thuộc, với mỗi loại khách đều có những kỹ thuật riêng biệt để khách cảm thấy vui vẻ nhất khi ra về và chắc chắn sẽ quay lại lần sau.
Em định post chi tiết hơn về 7 chữ, 8 nghề, nhưng thôi, sợ nhạy cảm, hehe
Món này hay mà chị, chị cứ post lên đi để các lão được thẩm "nghề chơi" của các cụ xưa.
"Mobilis in Mobile" ― Jules Verne
đọc mãi em cũng hiểu chút chút. Túm lại chính ngày xưa lại hay, nghề nào cũng có quy trình quy chuẩn đàng hoàng, hành nghề có tâm.Đoạn này nằm trong đoạn tả cảnh Tú bà dạy Kiều vào nghề sau khi Kiều được bán cho lầu xanh của mụ Tú.
Vừa tuần nguyệt sáng gương trong,
Tú bà ghé lại thong dong dặn dò:
“Nghề chơi cũng lắm công phu,
Làng chơi ta phải biết cho đủ điều.”
Nàng rằng: “Mưa gió dập dìu,
Liều thân thì cũng phải liều thế thôi!”
Mụ rằng: “Ai cũng như ai,
Người ta ai mất tiền hoài đến đây?
Ở trong còn lắm điều hay,
Nỗi đêm khép mở nỗi ngày riêng chung.
Này con thuộc lấy làm lòng,
Vàng ngoài bảy chữ vành trong tám nghề.
Chơi cho liễu chán hoa chê,
Cho lăn lóc đá cho mê mẩn đời.
Khi khóe hạnh khi nét ngài,
Khi ngâm ngợi nguyệt khi cười cợt hoa.
Ðều là nghề nghiệp trong nhà,
Ðủ ngần ấy nết mới là người soi.”
Gót đầu vâng dạy mấy lời,
Dường chau nét nguyệt dường phai vẻ hồng.
Những nghe nói đã thẹn thùng,
Nước đời lắm nỗi lạ lùng khắt khe!
Xót mình cửa các buồng khuê,
Vỡ lòng học lấy những nghề nghiệp hay!
Để bắt đầu hành nghề. trước tiên Kiều phải học đã chứ. Vì “nghề chơi cũng lắm công phu”, nếu không chịu khó học để “biết cho đủ điều”, và nếu “ai cũng như ai” thì “người ta ai mất tiền hoài đến đây?”... Nghe vậy thì đành phải học thôi. Chao ơi, thân “cửa các buồng khuê” mà phải “thuộc lấy làm lòng” “bảy chữ tám nghề”, “nước đời lắm nỗi lạ lùng khắt khe!” thật đấy. Chẳng bao lâu Kiều tốt nghiệp, “đủ ngần ấy nết”, thành ra một “người soi”. Nghe có hàng mới vừa đẹp vừa lạ lùng, ong bướm tới tấp bay vào động Tú bà hưởng thụ.
Gõ nhanh quá nên em sai dòng này "Vàng ngoài bảy chữ vành trong tám nghề.", chính xác phải là "Vành ngoài bảy chữ vành trong tám nghề.", do không đủ thời gian nên em đánh quote lại. Mong các lão thông cảm.
Tiện thể em cũng chém đoạn này hầu các lão. Để biết rằng các cụ ngày xưa đi chơi lầu xanh cũng là thưởng thức một môn nghệ thuật đích thực.
"Vành ngoài" là bề ngoài, tức là cách đối xử bên ngoài với khách. "Bảy chữ" là bảy việc ghi bằng chữ để dễ nhớ. Bảy chữ là:
1. Khấp: khóc tỉ tê làm cho khách xúc động thương xót.
2. Tiễn: giả cắt tóc thề nguyền để khách tin.
3. Thích: viết tên khách vào tay mình giả ý thương yêu.
4. Thiêu: đốt hương thề nguyền với khách
5. Giá: hẹn hò lấy khách làm chồng, giả xin làm vợ lẽ
6. Tẩu: rủ khách đi trốn giả như giữ lòng chung thuỷ
7. Tử: giả liều chết để khách khuyên ngăn."Vành trong" là bề trong, tức là cách đối xử bên trong với khách. "Tám nghề" là cách ân ái với khách, tuỳ từng tính cách của mỗi đối tượng, để làm cho khách khoan khoái nhất. "Tám nghề" là:
1. Tiếp người nhỏ bé thì dùng cách "kích cổ thôi hoa"
2. Tiếp người to béo thì dùng cách "Kim liên song toả"
3. Tiếp người nóng vội thì dùng cách "đại xiển kỳ cổ"
4. Tiếp người chậm chạp thì dùng cách "mạn đả khinh khao"
5. Tiếp người mới thì dùng cách "khẩn khuyên tam trật"
6. Tiếp người thạo đời thì dùng cách "tả trì hữu trì"
7. Tiếp người si tình thì dùng cách "toả tâm truy hồn"
8. Tiếp người lạnh lùng thì dùng cách "nhiếp thần nhiệm toả"Qua ngâm cứu cái "tám nghề" này thì em mới phát hiện ra là các kỹ nữ ngày xưa đề cao việc có được 1 tập khách hàng quen thuộc, với mỗi loại khách đều có những kỹ thuật riêng biệt để khách cảm thấy vui vẻ nhất khi ra về và chắc chắn sẽ quay lại lần sau.
"Nghề nào cũng có Trạng nguyên", chắc hẳn Kiều đã đạt tới cảnh giới đó






