Ngày 06 tháng 9 năm 1945 được coi là Ngày truyền thống của TTXVN (lúc đó mang tên Việt Nam Thông tấn xã). Đây là ngày VNTTX chính thức phát đi bản Tuyên ngôn độc lập và danh sách thành viên Chính phủ Lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bằng 3 thứ tiếng Việt, Anh và Pháp. Bản tin này được phát từ Đài phát sóng vô tuyến Bạch Mai (Hà Nội) ra toàn quốc và toàn thế giới.
Báo chí Việt ngữ ra số tháng 9 năm 1945 viết về Ngày Độc lập.
Cho đến năm 1945, cả Việt Nam chỉ có khoảng mươi tờ báo có lượng phát hành lớn và do điều kiện của cách mạng lúc bấy giờ càng có rất ít tờ báo ra đúng ngày chủ nhật 2/9/1945 hay xuất bản vào tháng 9/1945.
Báo Đông Phát số ra ngày 2/9/1945, và lấy luôn tiêu đề "Số báo xuất bản đặc biệt về Ngày Độc lập”. Không chỉ thông tin chi tiết về nội dung buổi lễ, tờ Đông Phát còn đăng bản đồ ghi rõ chỗ dành riêng cho các giới cũng như các lối vào vườn hoa Ba Đình. Thậm chí, Chính phủ Lâm thời còn thông báo rõ cả giờ thiết quân luật tại Hà Nội từ 23h đêm đến 5h sáng với lời nhấn mạnh “theo giờ Việt Nam độc lập”, cùng giờ làm việc tại các công sở của chính quyền mới từ ngày 3/9/1945.
Đặc biệt chú ý trên trang báo Cứu Quốc số ra ngày 5/9 là việc Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong không khí mừng vui của ngày Lễ độc lập, vẫn không quên nhắc nhở quốc dân đồng bào không quên mối hiểm nguy trước mắt: Quân Pháp kéo vào Việt Nam. Trong box được viền đậm nét ở cuối trang là Lời kêu gọi quốc dân đồng bào của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
“Quốc dân đồng bào! Nhân dân Việt Nam hoan nghênh quân Đồng minh kéo vào Việt Nam để tước khí giới quân Nhật, nhưng cương quyết phản đối quân Pháp kéo vào Việt Nam, vì mục đích của họ chỉ là hãm dân tộc Việt Nam vào vòng nô lệ một lần nữa. Hỡi đồng bào! Hiện một số quân Pháp đã lọt vào nước ta. Đồng bào hãy sẵn sàng đợi lệnh của Chính phủ để chiến đấu”.
Tờ Trung Bắc Chủ nhật, số 261, ra ngày 09/9/1945 có đăng ảnh chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh và trang 5 có bài “Hôm nay là ngày Độc lập! Muôn năm Độc lập! Độc lập muôn năm!”
"Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc".
Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.
Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói:
"Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi".
Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được.
Thế mà hơn 80 năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa.
Về chính trị - Chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào.
Chúng thi hành những luật pháp dã man. Chúng lập ba chế độ khác nhau ở Trung, Nam, Bắc để ngăn cản việc thống nhất nước nhà của ta, để ngăn cản dân ta đoàn kết.
Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu.
Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân.
Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược.
Về kinh tế - Chúng bóc lột dân ta đến tận xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều.
Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu.
Chúng giữ độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng.
Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn, trở nên bần cùng.
Chúng không cho các nhà tư sản ta giầu lên. Chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn.
Mùa thu năm 1940, phát-xít Nhật đến xâm lăng Đông Dương để mở thêm căn cứ đánh Đồng Minh, thì bọn thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước Nhật. Từ đó dân ta chịu hai tầng xiềng xích: Pháp và Nhật. Từ đó dân ta càng cực khổ, nghèo nàn. Kết quả là cuối năm ngoái sang đầu năm nay, từ Quảng Trị đến Bắc Kỳ, hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói.
Ngày 9 tháng 3 năm nay, Nhật tước khí giới của quân đội Pháp. Bọn thực dân Pháp hoặc bỏ chạy hoặc đầu hàng. Thế là chẳng những chúng không "bảo hộ" được ta, trái lại, trong 5 năm, chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật.
Trước ngày 9 tháng 3, biết bao lần Việt Minh đã kêu gọi người Pháp liên minh để chống Nhật. Bọn thực dân Pháp đã không đáp ứng, lại thẳng tay khủng bố Việt Minh hơn trước. Thậm chí đến khi thua chạy, chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng.
Tuy vậy, đối với nước Pháp, đồng bào ta vẫn giữ một thái độ khoan hồng và nhân đạo. Sau cuộc biến động ngày 9 tháng 3, Việt Minh đã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thùy, lại cứu cho người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật, và bảo vệ tính mạng, và tài sản cho họ.
Sự thực là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng Minh thì nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Sự thực là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp.
Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hòa.
Bởi thế cho nên chúng tôi - Lâm thời Chính phủ của nước Việt Nam mới - đại biểu cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam.
Toàn dân Việt Nam, trên dưới một lòng quyết liệt chống lại âm mưu của bọn thực dân Pháp.
Chúng tôi tin rằng các nước Đồng Minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở các Hội nghị Tê-hê-răng và Cựu-kim-sơn, quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam.
Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng Minh chống phát-xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do ! Dân tộc đó phải được độc lập !
Vì những lẽ trên, chúng tôi - Chính phủ Lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng:
"Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy".
Hồ Chí Minh (Chủ tịch), Trần Huy Liệu, Võ Nguyên Giáp, Chu Văn Tấn, Dương Đức Hiền, Nguyễn Văn Tố, Nguyễn Mạnh Hà, Cù Huy Cận, Phạm Ngọc Thạch, Nguyễn Văn Xuân, Vũ Trọng Khánh, Phạm Văn Đồng, Đào Trọng Kim, Vũ Đình Hòe, Lê Văn Hiến
Một bản tuyên ngôn đanh thép và rất rõ ràng. Vậy mà giờ đây lại có những người đặt ra vấn đề Pháp ở nước ta bị lỗ vốn. Thua.
Lực lượng vũ trang bảo vệ quần chúng Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm1945 tại Hà Nội - Nghệ sĩ nghiếp ảnh Nguyễn Bá Khoản
Nhà mình đợt tới 2025 làm kỷ niệm, em thích tái hiện lại quang cảnh ngày đó, quần chúng ai tham dự khuyến khích nên mặc lại trang phục ngày đó, Hà Nội có thể mời các chuyên gia cung cấp ảnh thời đó về trang phục và hỗ trợ quần chúng tham gia tái hiện cảnh ngày đấy, sẽ là cơ hội giáo dục thế hệ sau này, em nghĩ thế sẽ rất tuyệt.
"Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc".
Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.
Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói:
"Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi".
Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được.
Thế mà hơn 80 năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa.
Về chính trị - Chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào.
Chúng thi hành những luật pháp dã man. Chúng lập ba chế độ khác nhau ở Trung, Nam, Bắc để ngăn cản việc thống nhất nước nhà của ta, để ngăn cản dân ta đoàn kết.
Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu.
Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân.
Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược.
Về kinh tế - Chúng bóc lột dân ta đến tận xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều.
Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu.
Chúng giữ độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng.
Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn, trở nên bần cùng.
Chúng không cho các nhà tư sản ta giầu lên. Chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn.
Mùa thu năm 1940, phát-xít Nhật đến xâm lăng Đông Dương để mở thêm căn cứ đánh Đồng Minh, thì bọn thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước Nhật. Từ đó dân ta chịu hai tầng xiềng xích: Pháp và Nhật. Từ đó dân ta càng cực khổ, nghèo nàn. Kết quả là cuối năm ngoái sang đầu năm nay, từ Quảng Trị đến Bắc Kỳ, hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói.
Ngày 9 tháng 3 năm nay, Nhật tước khí giới của quân đội Pháp. Bọn thực dân Pháp hoặc bỏ chạy hoặc đầu hàng. Thế là chẳng những chúng không "bảo hộ" được ta, trái lại, trong 5 năm, chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật.
Trước ngày 9 tháng 3, biết bao lần Việt Minh đã kêu gọi người Pháp liên minh để chống Nhật. Bọn thực dân Pháp đã không đáp ứng, lại thẳng tay khủng bố Việt Minh hơn trước. Thậm chí đến khi thua chạy, chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng.
Tuy vậy, đối với nước Pháp, đồng bào ta vẫn giữ một thái độ khoan hồng và nhân đạo. Sau cuộc biến động ngày 9 tháng 3, Việt Minh đã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thùy, lại cứu cho người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật, và bảo vệ tính mạng, và tài sản cho họ.
Sự thực là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng Minh thì nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Sự thực là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp.
Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hòa.
Bởi thế cho nên chúng tôi - Lâm thời Chính phủ của nước Việt Nam mới - đại biểu cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam.
Toàn dân Việt Nam, trên dưới một lòng quyết liệt chống lại âm mưu của bọn thực dân Pháp.
Chúng tôi tin rằng các nước Đồng Minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở các Hội nghị Tê-hê-răng và Cựu-kim-sơn, quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam.
Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng Minh chống phát-xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do ! Dân tộc đó phải được độc lập !
Vì những lẽ trên, chúng tôi - Chính phủ Lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng:
"Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy".
Hồ Chí Minh (Chủ tịch), Trần Huy Liệu, Võ Nguyên Giáp, Chu Văn Tấn, Dương Đức Hiền, Nguyễn Văn Tố, Nguyễn Mạnh Hà, Cù Huy Cận, Phạm Ngọc Thạch, Nguyễn Văn Xuân, Vũ Trọng Khánh, Phạm Văn Đồng, Đào Trọng Kim, Vũ Đình Hòe, Lê Văn Hiến
Một bản tuyên ngôn đanh thép và rất rõ ràng. Vậy mà giờ đây lại có những người đặt ra vấn đề Pháp ở nước ta bị lỗ vốn. Thua.
Hôm trước, bên OF có thành phần còm đại ý thực dân Pháp ko hề ác với dân Việt, và vì người lao động An Nam ko ra gì nên giới chủ Pháp mới phải siết chặt. Em điên quá, chửi tung mấy còm mà sau min mod xóa mất.
Lực lượng vũ trang bảo vệ quần chúng Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm1945 tại Hà Nội - Nghệ sĩ nghiếp ảnh Nguyễn Bá Khoản
Nhà mình đợt tới 2025 làm kỷ niệm, em thích tái hiện lại quang cảnh ngày đó, quần chúng ai tham dự khuyến khích nên mặc lại trang phục ngày đó, Hà Nội có thể mời các chuyên gia cung cấp ảnh thời đó về trang phục và hỗ trợ quần chúng tham gia tái hiện cảnh ngày đấy, sẽ là cơ hội giáo dục thế hệ sau này, em nghĩ thế sẽ rất tuyệt.
Tổng đạo diễn chương trình, người có tâm chắc ko thiếu, nhưng người có tầm thì e là khó, Mều ạ.
Làm em lại nhớ hồi xưa bé hay chơi súng đẽo bằng gỗ, oách phết
Để chuẩn bị cho lễ mít tinh tại Quảng trường Ba Đình ngày 2-9-1945, riêng việc kéo cờ trên lễ đài, Bác gợi ý Ban tổ chức nên chọn thành phần nữ tiêu biểu, như vậy càng thêm ý nghĩa của ngày Độc lập... Lĩnh hội ý kiến của Bác, một cô gái dân tộc Tày, quê ở Cao Bằng từ buổi chiều hôm trước (1-9) đã được Chi đội trưởng Giải phóng quân Đàm Quang Trung phân công, hướng dẫn trước, kéo cờ cùng một nữ sinh Thủ đô sẽ được lựa chọn sau.
Cô gái Tày đó là Đàm Thị Loan, sinh năm 1926, ở huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng. Tròn 14 tuổi, bắt đầu tham gia Hội Việt Minh, ở xã Bình Long, huyện Hòa An, Cao Bằng, từ đó Đàm Thị Loan lấy bí danh là Thanh Xuân.
Đàm Thị Loan tham gia Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân từ ngày đầu mới thành lập, do tính chất công việc được phân công nên cô đã không có mặt trong hàng ngũ của đội, để được giơ tay thề dưới Quốc kỳ trong lễ tuyên thệ ngày 22/12/1944. Sau ngày Độc lập, bà Loan được giao giữ chức trung đội trưởng Đội tự vệ thành Hoàng Diệu, toàn quốc kháng chiến, bà trở về chiến khu Việt Bắc. Hòa bình lập lại, bà chuyển sang làm nhiệm vụ cơ yếu. Trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước, bà lại có mặt ở Tây Ninh. Bà Loan chính là phu nhân của Đại tướng Hoàng Văn Thái (1 trong 34 chiến sĩ tuyên thệ ngày 22/12/1944).
Buổi lễ thành lập đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng Quân, Võ Nguyên Giáp (bìa trái).
Nữ sinh Hà Nội “tình cờ” được tham gia kéo cờ là Lê Thi, tên thật là Dương Thị Thoa, sinh năm 1926 (Lê Thi là bí danh khi tham gia hoạt động cách mạng), con gái Giáo sư Dương Quảng Hàm. 17 tuổi, cô nữ sinh Trường Đồng Khánh (nay là trường Trưng Vương, Hà Nội), đã sớm giác ngộ cách mạng, tham gia Đội phụ nữ cứu quốc đi tuyên truyền, vận động người dân ủng hộ cách mạng.
Sáng 2-9-1945, Lê Thi dẫn đầu Đoàn phụ nữ Hàng Bông đến Quảng trường Ba Đình. Một cán bộ trong ban tổ chức Ngày lễ độc lập đến thông báo cử một phụ nữ lên kéo cờ. Các chị em lập tức đồng thanh cử bà lên kéo cờ. Vậy là bà trở thành nhân vật lịch sử tham gia một sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc.
GS Triết học Lê Thi đã vinh dự được trao tặng Huân chương Lao động hạng nhất; Huân chương Độc lập hạng ba và nhiều huân, huy chương, phần thưởng cao quý khác của Đảng và Nhà nước.
Bà Lê Thi năm 1947
Đoàn biểu tình của tổ chức phụ nữ Cứu quốc ở Hà Nội ngày 19/8/1945. Ảnh: Nguyễn Bá Khoản
Đoàn thể Phụ nữ cứu quốc Hà Nội ngày 2-9-1945 tại Ba Đình. Ảnh: Nguyễn Bá Khoản
Chiều 2-9-1945, Đàm Thị Loan đại diện cho phụ nữ các dân tộc thiểu số-nữ chiến sĩ giải phóng, đầu đội ca lô lệch, áo nâu thít ngang, quần thâm chẽn gấu, đi giày ba ta, đĩnh đạc từ hàng quân của nữ tự vệ đi thẳng tới phía trái lễ đài. Cô nữ sinh Lê Thi mặc áo dài trắng thướt tha cũng đã đứng đợi cạnh bậc lên lễ đài. Một đồng chí trong Ban tổ chức ra hiệu cho hai người cùng đi lên cạnh cột cờ và phân công: Cô Loan, người thấp hơn cầm dây kéo cờ, cô nữ sinh cao hơn, hai tay nâng lá cờ, sau đó hai người cùng chung tay kéo cờ lên...
Công tác bảo vệ lễ Độc lập tại Quảng trường Ba Đình trong ngày 2/9/1945
Từ khởi nghĩa giành chính quyền 19/8/1945 đến ngày tuyên đọc Tuyên ngôn độc lập thời gian quá ngắn ngủi, tình hình an ninh trật tự còn nhiều phức tạp. Đối với nhà nước non trẻ, việc bảo vệ an ninh buổi lễ nói chung và lễ đài nói riêng là không hề đơn giản.
Chính phủ phân công nhiệm vụ bảo vệ buổi lễ long trọng này là các lực lượng Liêm phóng, Cảnh sát và Trinh sát Thành, nhất là công tác bảo vệ tiếp cận lãnh tụ, bảo vệ vòng trong, vòng ngoài, bảo vệ khu vực khán đài cũng như khu vực quần chúng nhân dân dự mít tinh. Vì thế, để đảm bảo tuyệt đối an toàn cho lãnh tụ và cuộc mít tinh, lực lượng Cảnh sát được trang bị súng ngắn, đi xe đạp hộ tống đoàn xe của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các thành viên Chính phủ tới Quảng trường Ba Đình.
Lễ Độc lập được Sở Liêm phóng Bắc Bộ lên kế hoạch và triển khai chu đáo, với lực lượng trinh sát bí mật hóa trang trong dòng người dự mít tinh để phát hiện những hiện tượng nghi vấn, sẵn sàng ngăn chặn. Lực lượng cảnh sát được bố trí bảo vệ công khai các khối quần chúng, giữ gìn trật tự trong hàng ngũ những người dự mít tinh. Một số chiến sĩ cảnh sát được lựa chọn mặc sắc phục, có súng ngắn hoặc súng trường để làm nhiệm vụ bảo vệ xung quanh lễ đài. Các chiến sĩ cảnh sát có trang bị vũ khí đứng thành hàng rào hai bên đường, từ nơi xuất phát của lãnh tụ và các thành viên Chính phủ đến lễ đài.
Công tác bảo vệ được chia thành 3 vòng. Vòng ngoài cùng, đơn vị Giải phóng quân của ông Đàm Quang Trung từ chiến khu về được giao phối hợp với Đội Tự vệ chiến đấu Cứu quốc thành Hoàng Diệu. Ngoài ra, còn các lực lượng quần chúng như: Thanh niên cứu quốc, Công nhân cứu quốc… tuy dự mít tinh nhưng có ý thức cùng bảo vệ Chính phủ Lâm thời. Họ cũng trang bị vũ khí và sẵn sàng hành động khi có sự phá hoại của kẻ xấu.
"Ngày 2/9/1945, đồng chí Đỗ Đức Kiên trong Ban chỉ huy của Đội Tự vệ chiến đấu Cứu quốc thành Hoàng Diệu vinh dự dẫn hai trung đội đến Quảng trường Ba Đình làm nhiệm vụ bảo vệ Lễ Độc lập. Trung đội Tô Hiệu được phân công trực tiếp làm hàng rào danh dự, còn trung đội Hà Huy Tập của tôi được phân công bảo vệ vòng ngoài Lễ đài…" - theo ký ức của Trung tướng Phạm Hồng Cư.
Nhiệm vụ bảo vệ Lễ đài Độc lập do tổ của ông Hoàng Mai (sau này là Thứ trưởng Bộ Công an) và ông Chu Đức Minh đảm nhiệm.
Ông Chu Đình Xương, Giám đốc Sở Liêm phóng Bắc Bộ, vinh dự được phân công trọng trách trực tiếp bảo vệ tiếp cận Chủ tịch Hồ Chí Minh trên khán đài trong suốt quá trình diễn ra buổi lễ.
Trong những thước phim tư liệu, hình ảnh người đứng cạnh che ô cho Bác Hồ trên lễ đài lúc đó là đồng chí Chu Đình Xương, một cựu tù cộng sản từng bị giặc Pháp bắt giam tù đày tại nhiều nhà tù và là tù vượt ngục tháng 3/1945 từ nhà tù Sơn La trở về tham gia hoạt động cách mạng và sau Tổng khởi nghĩa, ông được Xứ uỷ phân công làm Giám đốc Sở Liêm phóng Bắc Bộ.
...ít ai biết được, Lễ đài Độc lập với tổng thể vườn hoa Ba Đình đó chỉ được các kiến trúc sư, họa sỹ,... xây dựng trong vòng 48 tiếng.
KTS Ngô Huy Quỳnh sinh năm 1920 tại làng Ngọc Lập, xã Phùng Chí Kiên, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên, trong một gia đình Nho học. Năm 1938, với tài năng của mình, ông đã thi đỗ vào cả hai khoa Mỹ thuật và Kiến trúc của Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Tháng 8/1945, Ngô Huy Quỳnh được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam).
Ngày 1/9/1945, KTS Ngô Huy Quỳnh được ông Phạm Văn Khoa, cùng hoạt động trong Hội Văn hóa Cứu quốc, (sau này là Nghệ sĩ nhân dân, đạo diễn, Cục trưởng Cục Điện ảnh đầu tiên) đến truyền đạt yêu cầu của Kỳ bộ Việt Minh việc thiết kế Kỳ đài để chiều mai (ngày 2 tháng 9) Hồ Chủ tịch đứng đọc Tuyên ngôn Độc lập và Chính phủ lâm thời ra mắt quốc dân đồng bào tại vườn hoa Ba Đình.Ông Khoa cũng yêu cầu Kỳ đài làm giản dị nhưng phải trang nghiêm và trên lễ đài có thể đứng được hơn 30 người.
Sau khi quan sát thực địa và tính toán, ông Quỳnh đã chọn phương án dựng lễ đài bằng gỗ theo cách đóng đinh (vì thời gian gấp) và bọc lụa xung quanh trên vàng dưới đỏ để tạo dáng mỹ thuật, vừa nhanh vừa dễ làm. Nơi dựng lễ đài là bồn cỏ tròn ở giữa vườn hoa Ba Đình. Công trình được thiết kế có màu vàng nhạt, vòng hai tay ôm lấy phía sau lễ đài màu đỏ. Phương án được ông Nguyễn Hữu Đang là Trưởng ban tổ chức Ngày Độc lập phê duyệt, giao cho Ngô Huy Quỳnh và họa sỹ Lê Văn Đệ thực hiện, hoàn thành trước 5h sáng 02/9/1945.
Lễ đài Độc lập trên Quảng trường Ba Đình do KTS Ngô Huy Quỳnh thiết kế
Cùng tài năng và sự nỗ lực, cùng với sự ủng hộ nhiệt tình, mong muốn đóng góp cho cách mạng của quần chúng nhân dân, ông và các cộng sự hoàn thành công trình nổi tiếng này chỉ trong một ngày đêm (công trình hoàn thành trước rạng đông ngày 2/9). Màu đỏ, vàng của lễ đài với hai bình hương hai bên, cùng màu của cờ đỏ sao vàng trên cột cờ lễ đài, tất cả cùng nổi lên rực rỡ và sống động.
Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Chính phủ lâm thời đã đứng trên Lễ đài ra mắt quốc dân đồng bào và Người trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Ðộc lập bất hủ, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Cố KTS Ngô Huy Quỳnh
Bản quy hoạch trung tâm quảng trường Ba Đình của KTS Ngô Huy Quỳnh, năm 1960.
Hệ thống truyền thanh trong buổi lễ Tuyên ngôn Độc lập 02/9/1945
Ngày 2/9/1945, qua hệ thống loa phóng thanh, hàng chục vạn người dân Hà Nội đã được nghe lời Bác đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Người có công đưa tiếng nói của Bác tới đông đảo quần chúng ngày hôm đó là ông Nguyễn Dực - chủ cửa hiệu Nguyễn Dực Radio số 43 Hàng Bài.
Ông Nguyễn Dực, là con thứ tám của học giả Nguyễn Văn Vĩnh, từng theo học trường Kỹ nghệ thực hành, khoa cơ khí, nhưng lại say mê nghề vô tuyến điện. Năm 1941, ông cùng với người em Nguyễn Hồ mở được cửa hàng sửa chữa tại số nhà 43a phố Đồng Khánh (nay là phố Hàng Bài), chuyên kinh doanh và sửa chữa thiết bị âm thanh như loa, micro, ampli, máy quay đĩa...
Ông giao du với nhiều nhân vật cốt cán của phong trào Việt Minh và được giới thiệu với ông Xuân Thủy. Xuân Thủy từng nêu đề nghị với Nguyễn Dực: "Anh nên mua thêm loa và micro, tương lai gần thôi chúng ta sẽ cần đến nhiều, và nên cất giấu đi chứ không nên để ở cửa hàng bên cạnh rạp Majestic (nay là rạp Tháng Tám), trước cửa lại là trại lính khố xanh..."
Ngày 15/8/1945, Tổng hội Viên chức Hà Nội đề nghị Nguyễn Dực cho mượn và lắp đặt thiết bị phóng thanh cho cuộc mít tinh tại quảng trường Nhà hát lớn Hà Nội, dự kiến vào ngày 17/8 để thông báo sự thất trận của Phát xít Nhật trong chiến tranh Thế giới thứ hai.
Tuy nhiên, thêm sự việc không ngờ đến, đó là khi Phạm Thành là người bạn, người bạn thân thiết của Nguyễn Dực trong nhóm Hướng đạo sinh, ông là con chủ hiệu may Thuận Thành Long ở gần chợ Đồng Xuân khi đó đề xuất may cờ cho buổi lễ. Nhưng khi quyết định may lá cờ đại, ông Phạm Thành lại không muốn may tại cửa hiệu của cha mình, do ở đó có nhiều thợ làm, sợ việc dễ bị lộ. Trong khoảng thời gian gấp gáp, chỉ còn một đêm chuẩn bị, Nguyễn Dực đã nêu ý kiến đưa về nhà cho vợ may với lý do đơn giản là tại nhà ông có chiếc máy khâu quay tay mua được của một gia đình Tây đã bỏ đi.
Vậy nên, khi cuộc mít tinh của Tổng hội Viên chức tại Nhà Hát Lớn biến thành diễn đàn của Việt Minh, không chỉ Nguyễn Dực làm công việc quen thuộc của mình là chuẩn bị trang âm mà người vợ trẻ Lê Thị Tý là người may lá cờ đỏ sao vàng lớn nhất cho buổi lễ. Ngày đó bà đang mang thai 7 tháng.
Vợ chồng ông Nguyễn Dực
Sau đó theo yêu cầu của Tổng bộ Việt Minh, Nguyễn Dực lại mang thiết bị phóng thanh để mang xuống Nam Định tổ chức cướp chính quyền. Hoàn thành công việc ở Nam Định, ông Dực cùng anh em tiếp tục sang Ninh Bình. Vừa về đến Hà Nội, ông Trần Kim Xuyến đã khẩn cấp kéo Nguyễn Dực đến Sở Thông tin Tuyên truyền Bắc Bộ nằm ngay phía sau tòa nhà Bắc bộ phủ. Tại đây, ông Dực đã chính thức nhận nhiệm vụ: "Cần làm ngay và làm thế nào để có được Đài Phát thanh loan báo cho Thế giới biết rằng chúng ta đã cướp được Chính quyền".
Nhận nhiệm vụ, Nguyễn Dực trở về làng Bái Ân -Trích Sài gần chợ Bưởi. Trước đống thiết bị được cất giấu, đã chọn: Một máy phát sóng công xuất 200w có nhãn hiệu "Crosley" của Mỹ sản xuất; Ba máy khuếch đại công xuất 40w; 10 bộ loa nhãn hiệu "Jensen" V10; Ba chiếc micro nhãn hiệu Philips, cùng các phụ tùng kỹ thuật và rất nhiều chi tiết phụ trợ cùng cả nghìn chiếc đĩa hát than tốc độ 78 vòng/phút.
Chỉ trong 2 ngày 23 và 24/8/1945, ông và các bạn đã làm việc liên tục để hoàn thành nhiệm vụ do tổ chức yêu cầu. Ngày 25/8, đã hình thành nên hệ thống phát thanh với một dàn ăngten trên nóc nhà Sở Thông tin Tuyên truyền Bắc bộ ở phố Nguyễn Xí bây giờ. 8h40 phút ngày 25/8/1945, ông thử máy, Trần Kim Xuyến đã thân chinh đạp xe đạp sang Hưng Yên với thỏa thuận với Nguyễn Dực, để khi phát sóng, xem sóng có bắt được tốt không?! Bên cạnh đó, cũng tổ chức việc cắt cử một số người chia đi các tỉnh để kiểm tra xem việc bắt sóng đạt được chất lượng đến đâu.... Kết quả thật tốt.
Sau đó ông được lệnh bố trí hệ thống phóng thanh cho ngày tuyên bố độc lập. Ông tâm niệm, đây là sự kiện lớn, phải cố gắng. Ông đã tính toán rất kỹ về việc dùng loại tăng âm, loa, micro và vị trí đặt thiết bị đáp ứng yêu cầu truyền thanh quy mô lớn... Cuối cùng, chiếc loa xa nhất được đặt ở khu vực nhà thờ Cửa Bắc, chiếc loa gần nhất đặt ở gần vườn hoa Canh Nông (nay là công viên Lenin). Công việc hoàn thành vào ngày 1/9 với 3 máy khuếch đại 40W, 3 micro và 7 cái loa to đủ để cho 50 vạn người nghe. Ông chuẩn bị 3 micro để đề phòng có bất trắc, trong đó chiếc micro ở giữa 4 mặt hiệu Phillips là cái tốt nhất
Trong cuốn hồi ký của mình, với góc nhìn của một người đứng phía sau lễ đài chịu trách nhiệm phụ trách âm thanh cho buổi lễ Độc Lập, ông viết: "Khi vừa chào cờ xong thì Hồ Chủ tịch nhìn vào 3 micro và khẽ thổi vào chiếc micro 4 mặt hiệu Phillips ở giữa, đèn báo trên máy đỏ lên và lập tức có tiếng "phù" từ cái loa dội lại khá to. Hồ Chủ tịch lùi lại một chút rồi nói: "Tôi nói đồng bào nghe rõ không?" thì ở dưới lập tức vang lên: "Có ạ"....
Hệ thống âm thanh dùng cho buổi lễ Độc Lập chính là tài sản riêng của gia đình ông Nguyễn Dực, chủ cửa hàng. "Nguyễn Dực - Radio". Ông đã hiến tài sản được dựng nên bằng niềm đam mê cho chính quyền cách mạng để khi kháng chiến thành công trở về là một người làm công tác kỹ thuật của Đài Tiếng nói Việt Nam.
Ngày 28/8/1945, Chính phủ lâm thời họp để quyết định ngày lễ ra mắt quốc dân đồng bào, ông Nguyễn Hữu Đang được quyết định cử làm Trưởng ban Tổ chức ngày lễ.
Nguyễn Hữu Đang (1913-2007) là một nhà báo, từng bị thực dân Pháp bắt tù 1930, cũng từng là thứ trưởng Bộ Thanh Niên, tham gia Mặt Trận Dân chủ Đông Dương (1937-1939), một trong những người sáng lập nên Hội truyền bá Quốc ngữ (1938-1945), từng tham gia phong trào Văn hóa Cứu Quốc (1943-1946), Ủy ban Giải phóng Dân tộc tại Tân Trào 1945.
Khi được Bác trực tiếp giao trọng trách, ông bày tỏ khó khăn vì sự việc gấp gáp, Bác nói ngay: “Có khó thì mới giao cho chú chứ!”. Ông đã đề nghị và được Chủ tịch Hồ Chí Minh phê duyệt "quyền được huy động tất cả những gì cần thiết cho buổi lễ, về người cũng như về của...".
Là người có kinh nghiệm vận động quần chúng và trưởng thành từ thực tế phong trào truyền bá Quốc ngữ, ông Nguyễn Hữu Đang đã nhanh chóng tập hợp được nhân tài, vật lực từ các kiến trúc sư vẽ kiểu đến người thợ mộc trực tiếp thi công, từ các nhà công thương hiến tặng vật liệu đến nhà kỹ thuật cung cấp và lắp đặt các thiết bị phóng thanh… để đúng ngày giờ ấn định, Lễ đài Độc lập đã sừng sững uy nghi giữa Quảng trường Ba Đình.
Ba lá thư của Ban tổ chức "Ngày Độc lập" phần nào cho thấy công tác chuẩn bị cho buổi lễ
Ngày 31/8/1945, bác sĩ Trần Duy Hưng - Thị trưởng Hà Nội nhận được liên tục 3 lá thư được đánh máy bằng giấy than đen trên giấy trắng, khổ rộng 130 x 210 mm, bên ngoài đề Ban Tổ chức “Ngày Độc lập” thuộc Bộ Thông tin - Tuyên truyền, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nội dung các lá thư như sau:
Thư thứ nhất:“Kính gửi ông Thị trưởng Hà Nội,
Bộ Tuyên truyền của Chính phủ Lâm thời sẽ tổ chức ngày 2/9/1945 một “Ngày Độc lập”.
Muốn cho ngày ấy có một tính cách thiêng liêng, Ban tổ chức chúng tôi yêu cầu Ngài hạ lệnh cho các chùa chiền, nhà thờ phải cho mở cửa, quét tước sạch sẽ và đốt trầm hương suốt ngày hôm ấy để mừng Ngày Độc lập.
Kính thư: Nguyễn Hữu Đang”.
Thư thứ hai:“Kính gửi ông Thị trưởng Hà Nội
Nhân “Ngày Độc lập”, chúng tôi yêu cầu Ngài cho treo cờ ở vườn hoa Ba Đình và hai bên những phố lân cận. Còn về lễ chào Quốc kỳ, chúng tôi nhờ Ngài cho sửa soạn cho chúng tôi một chiếc cột cao 12 thước tây đủ cả giây và bánh xe (poulie); sẽ có chỉ thị về chỗ dựng cột cho phu toà Thị chính.
Kính thư: Nguyễn Hữu Đang”.
Thư thứ ba:“Kính gửi ông Thị trưởng Hà Nội
Muốn cho Ngày Độc lập tổ chức vào ngày 2/9/1945 tới đây được hoàn hảo, chúng tôi yêu cầu Ngài thông báo ngay cho các Phố trưởng để các ông ấy báo tin cho các nhà trong khu vực mình biết rằng Cụ nào trong nam giới hay nữ giới muốn đi dự lễ ấy sẽ đến họp ở Hội quán hội Khai trí hồi 13 giờ trước khi đi lên vườn hoa sau Sở tài chính.